Nghiên cứu, di dời và phục hồi quần thể trai tai tượng vảy ở Côn Đảo
13/06/2016
Lượt xem: 714
Công tác nghiên cứu, di dời và phục hồi quần thể trai tai tượng vảy (Tridacna squamosa Lamarck, 1819) tại 3 khu khoanh nuôi là hòn Bảy Cạnh, Đầm Tre và hòn Tre Lớn tại Côn Đảo có tỷ lệ sống tới 99,67%. Công việc này do nhóm nghiên cứu thuộc ban quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo, Trường đại học sư phạm TP.HCM, Viện sinh học nhiệt đới thực hiện, bước đầu đã thành công nhằm tạo điều kiện thuận lợi để từng bước phục hồi lại nguồn lợi loài trai tai tượng vảy.
Nguồn gen quý hiếm của khu vực
Loài trai tai tượng vảy trước đây phân bố rất phổ biến ở vùng biển Côn Đảo, tuy nhiên, trong thời gian qua, diễn biến đa dạng sinh học luôn có sự biến đổi liên quan đến các sự cố từ tự nhiên và các hoạt động của con người, đã làm nguồn tài nguyên này nói riêng và đa dạng sinh học biển nói chung bị suy giảm đáng kể. Sự ảnh hưởng của bão Linda vào ngày 2/11/1997 đã tác động đến hàng ngàn ha diện tích biển, một số rạn san hô bị phá hủy hoàn toàn sau bão, từ đó làm ảnh hưởng không nhỏ tới sự phân bố của loài này.
Kết quả nghiên cứu đặc điểm phân bố của trai tai tượng vảy tại Côn Đảo cho thấy, chiều dài vỏ có thể đạt 41 cm, cân đối; 4 - 6 gân dọc cách đều nhau, hai vỏ ăn khớp nhau khi khép lại, lỗ sinh sợi tơ có thể thay đổi theo kích thước, ở các cá thể có kích thước lớn tuyến sinh sợi tơ tiêu biến, rìa thịt kéo dài qua khỏi vỏ, khe hút nước có đai, các xúc tua lớn và nhiều. Mặt trong vỏ màu trắng sứ, mặt khớp dài, vỏ có 1 răng giữa và 2 răng bên phía sau, mép lỗ tơ chân có một số gờ cắt ngang, dạng răng cưa. Màng áo có các đường vân chạy song song với nhiều màu sắc khác nhau như màu nâu, xanh, vàng...
Phân bố ở độ sâu từ 3 - 20 m ở các vùng rạn san hô, chúng thường nằm trên nền đáy rạn san hô, ánh sáng từ bình thường đến mạnh và có thể chịu đựng cường độ ánh sáng rộng, dòng chảy thấp đến bình thường. Thức ăn là vật tự dưỡng sơ cấp. Hầu hết các loài thuộc họ Tridacnidae đều có 2 hình thức dinh dưỡng chủ yếu là tự dưỡng thông qua ăn lọc các mảnh vụn hữu cơ ngoài môi trường nước và cộng sinh với một số loài tảo quang hợp sống bám trên phần màng áo nhô ra ngoài vỏ để lấy nguồn dinh dưỡng nuôi cơ thể. Các loài tảo này quang hợp tạo ra đường, acid amin, acid béo, sau đó một phần dinh dưỡng này sẽ được phóng trực tiếp vào mạch máu của trai tai tượng và qua màng tế bào của tảo. Chính vì thế, trai tai tượng chỉ cần nuôi trong môi trường nước sạch và đủ ánh sáng mặt trời là chúng có thể sinh trưởng, phát triển bình thường.
Trai tai tượng là loài lưỡng tính, tính đực chín trước. Đầu tiên chúng phát triển như là một cá thể đực trong khoảng từ 3 - 10 năm đầu tùy loài, sau đó tuyến sinh dục phát triển thành hai bộ phận là tinh sào chứa tinh và buồng trứng chứa trứng trong cùng một cơ thể. Trong quá trình sinh sản, tinh trùng luôn luôn phóng ra trước kèm với việc tiết ra các hợp chất truyền đạt nhằm kích thích các cá thể khác gần đó tham gia phóng trứng, sau đó trứng của chính cá thể đó mới được phóng ra sau nhờ chất dẫn dụ của các cá thể khác gần đó. Với cơ chế như vậy, trai tai tượng đã tránh được hiện tượng trứng được thụ tinh của cùng một cá thể. Sức sinh sản của trai tai tượng rất cao, có thể dao động từ hàng triệu trứng.
Màu sắc tương tự như màu rạn san hô
Trai tai tượng vảy đa số nằm trên san hô dạng cành, dạng nấm, dạng phiến. Trong quá trình tiến hành khảo sát không bắt gặp cá thể trai tai tượng vảy nào nằm trên nền đáy cát. Điểm đáng chú ý ở đây là nếu khu vực nào có rạn san hô đa dạng về màu sắc thì những cá thể trai tai tượng vảy cũng có màu sắc tương tự như màu rạn san hô.
Phạm vi khảo sát được thực hiện trong hợp phần bảo tồn biển, thuộc ban quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Trai tai tượng vảy được đưa lên tàu cho vào thau nhựa có đựng sẵn nước biển, chuyển về khu phục hồi. Trong quá trình vận chuyển, các nhà khoa học đã tiến hành đo kích thước dài, rộng, cân trọng lượng và mang xuống khu khoanh nuôi phục hồi, đóng số thứ tự từng cá thể để theo dõi sự sinh trưởng và phát triển. Thời gian từ lúc lặn đến khi di dời về các khu khoanh nuôi phục hồi không quá 3 giờ. Những cá thể được ghi nhận trong quá trình khảo sát để di dời đều nằm trên nền rạn san hô. Những cá thể từ 25 cm trở xuống chân tơ đang bám chắc vào nền rạn san hô, các cá thể từ 30 cm trở lên chân tơ hầu như bị thoái hóa và chỉ bám nhẹ trên nền.
Trong quá trình khảo sát di dời trai tai tượng, nhóm nghiên cứu nhận thấy những cá thể kích thước nhỏ (chiều dài dưới 20 cm), có chân tơ phát triển mạnh bám chắc vào nền đáy san hô để tránh cho cá thể không bị nghiêng ngả khi có sóng lớn hay dòng chảy mạnh. Với những cá thể này, việc di dời gặp nhiều khó khăn; những cá thể từ 25 cm trở lên, trọng lượng và kích thước lớn dần nên chân tơ dần tiêu biến, có những cá thể không còn chân tơ bám vào nền đáy mà chỉ nằm trên nền san hô nên rất thuận lợi cho việc di dời và tỷ lệ sống cao.
Quỳnh Hoa
Nguồn: http://www.khoahocphothong.com.vn/news/detail/44702/nghien-cuu,-di-doi-va-phuc-hoi-quan-the-trai-tai-tuong-vay-o-con-dao.html