Lâu nay, mọi người chỉ chú ý đến chế độ ăn uống và tập luyện để giảm nguy cơ bệnh ĐTĐ mà không biết rằng một số loại thuốc điều trị các bệnh khác cũng làm tăng nguy cơ mắc ĐTĐ.
Thuốc và nguy cơ đái tháo đường Những thuốc nào làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường (ĐTĐ)? Theo những thông tin mới đăng tải trên các báo BMJ (Tạp chí của Hội y học Anh) và JAMA (Tạp chí của Hội y học Mỹ), có nhiều loại thuốc có thể làm tăng đường huyết, nhưng chỉ một số trong đó có liên quan đến sự phát sinh bệnh ĐTĐ, đặc biệt đối với những người vốn đã có yếu tố nguy cơ. Đáng chú ý là những thuốc sử dụng trong thời gian dài:
- Các corticoid (uống và tiêm) làm giảm sự thu hồi glucose, và chúng là một nguyên nhân phổ biến của ĐTĐ. Vì vậy, khi phải dùng lâu dài, các bệnh nhân (và thầy thuốc) nên sử dụng chúng với liều lượng thấp nhất. So với thuốc uống và thuốc tiêm, các corticoid dùng tại chỗ hay phun hít ít có khả năng làm tăng đường huyết, nhưng cũng nên thận trọng và theo dõi đối với những bệnh nhân sử dụng liều cao hay dùng thường xuyên và nhiều lần hàng ngày.
- Các chất lợi tiểu thiazid (như hydrochlorothiazid, thường dùng trong điều trị cao huyết áp) có thể ức chế sự phóng thích insulin. Mặt khác, tình trạng giảm kali-huyết do dùng chất lợi tiểu có thể ảnh hưởng tiêu cực đến việc kiểm soát đường huyết. Theo thống kê y học, trung bình với mỗi 126 bệnh nhân dùng thuốc lợi tiểu trong 5 năm thì sẽ có thêm 1 người bị ĐTĐ. Với các bệnh nhân bị giảm dung nạp glucose, tỷ lệ ấy là 1/17.
- Các chất statin (chống tăng cholesterol) làm tăng nhẹ nguy cơ ĐTĐ, có lẽ là do giảm độ nhạy với insulin ở cơ bắp. Có thêm khoảng 1 trường hợp ĐTĐ cho mỗi 1.000 bệnh nhân dùng statin mỗi năm. Nhưng bù lại, lợi ích cho tim mạch của việc dùng statin tỏ ra vượt trội: cứ mỗi 1.000 bệnh nhân dùng statin mỗi năm sẽ có ít hơn 9 sự cố tim mạch.
- Các chất chẹn beta (thường dùng cho bệnh cao huyết áp) có thể ức chế sự tiết insulin, nhưng hình như chúng chỉ làm tăng nhẹ nguy cơ ĐTĐ.
- Một số chất chống loạn tâm thần (clozapin, Zyprexa, Abilify, Latuda...) có thể làm tăng cảm giác đói bụng, do đó có thể dẫn đến tăng cân đáng kể và bệnh ĐTĐ. Các nhà chuyên môn khuyến nghị theo dõi đường huyết lúc đói trước khi bắt đầu dùng thuốc trong 12 tuần và mỗi năm sau đó, nhất là đối với clozapin và Zyprexa.
Những thuốc nên tránh ở người cao tuổi
Với tuổi thọ con người ngày càng gia tăng và dân số ngày càng lão hóa, sức khỏe người cao tuổi ngày càng được quan tâm hơn. Các tài liệu hướng dẫn sử dụng thuốc luôn dành một phần nội dung riêng cho những đối tượng tuổi cao, nhất là những người đã suy yếu hay đang mắc bệnh mạn tính. Tờ Journal of American geriatrics society (Tạp chí của Hiệp hội lão khoa Mỹ) vừa qua đã cập nhật thông tin về một số thuốc thuộc loại nguy-cơ-cao cho các bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên. Đối với các thuốc ấy, các bệnh nhân (và thầy thuốc) được khuyến nghị tránh dùng và thay thế bằng thứ khác an toàn hơn. Và nên nhớ rằng một người có tuổi thọ thấp hơn và sức khỏe tốt hơn thì dễ dung nạp các thuốc nói trên hơn so với một người tuổi cao hơn và yếu sức hơn. Các khuyến nghị chính bao gồm:
- Tìm cách tránh dùng glyburid (thuốc hạ đường huyết): tác dụng kéo dài của nó có nghĩa là tình trạng hạ đường huyết kéo dài hơn (dễ gây nguy hiểm hơn). Thay vào đó, có thể sử dụng glimepirid hay glipizid.
- Tránh dùng các thuốc ngủ không phải benzodiazepin (như zolpidem) trên ba tháng vì chúng có nguy cơ gây tổn hại khả năng nhận thức, gây té ngã và gãy xương. Cũng nên tránh dùng cả các benzodiazepin - như diazepam (Valium, Seduxen). Khi bị mất ngủ, nên áp dụng các biện pháp vệ sinh giấc ngủ và liệu pháp hành vi nhận biết; nếu cần có thể dùng liều thấp trazodon, ramelteon, melatonin... - hay một số dược liệu, cây cỏ như nhãn lồng (chùm bao), tâm sen...
- Tìm cách tránh sử dụng các thuốc kháng cholinergic như một số chất chống trầm cảm ba vòng (như amitriptylin) hay các chất kháng histamin thế hệ 1 (như diphenhydramin, promethazin, chlorpheniramin), vì chúng có thể gây tổn hại nhận thức và mê sảng. Với trường hợp dị ứng, nên sử dụng các chất kháng histamin thế hệ 2 - 3 (không gây buồn ngủ) như loratadin. Với bệnh trầm cảm, nên nghĩ tới các chất SSRI (như fluoxetin). Với chứng đau thần kinh (mạn tính), nên sử dụng gabapentin (thay vì amitriptylin). Nếu cần phải sử dụng một chất ba vòng, có thể nghĩ đến nortriptylin hay desipramin.
Sử dụng thuốc trị nấm da
So với nấm móng và các bệnh nhiễm nấm sâu, những bệnh nấm da thường gặp như lác đồng tiền, lang ben, nấm bẹn và bệnh “nước ăn chân” (tức bệnh “bàn chân vận động viên”) thuộc nhóm các bệnh nấm cạn (nông), ít để lại hậu quả tai hại (nhưng gây nhiều phiền phức) và tương đối dễ trị. Bệnh nhân có thể tự chữa, với điều kiện là sử dụng đúng thuốc và đúng cách.
Các chuyên gia khuyến nghị nên khởi đầu với các thuốc bôi OTC (thuốc không cần bác sĩ kê đơn) như terbinafin (Lamisil AT...) hay butenafin (Lotrimin Ultra) mỗi ngày một lần cho lác đồng tiền hay bệnh ngứa khi mang vớ, và mỗi ngày hai lần cho bệnh nước ăn chân. Gần đây đã xuất hiện một thuốc bôi kháng nấm mới nhiều tiềm năng: luliconazol (Luzu), dùng mỗi ngày một lần trong thời gian ngắn. Nhưng giá thuốc hiện còn rất cao: một ống Luzu 50 g có giá lên tới 380 USD, trong khi giá 30 g butenafin hay terbinafin chỉ là 16 USD. Các thuốc nói trên có tác dụng tốt hơn so với các OTC (thuốc không kê toa) thông dụng khác.
Cần sử dụng thuốc trong 1 - 6 tuần (tùy theo vị trí tổn thương và tùy theo sản phẩm) và bôi thuốc rộng ra ngoài ranh giới tổn thương khoảng 2 - 3 cm. Để chống tái phát, nên tiếp tục dùng thuốc thêm một tuần sau khi da đã lành lặn.
Không nên sử dụng các sản phẩm hỗn hợp kháng nấm/corticoid (như Lotrisone), ngoại trừ trường hợp có biểu hiện viêm (sưng, đỏ...) đáng kể. Corticoid có thể làm giảm tác dụng của chất kháng nấm.
Với các bệnh nấm lan rộng, mạn tính, trong trường hợp người bệnh bị suy giảm miễn dịch, hay là khi thuốc bôi không hiệu quả, nên dùng thuốc uống.
Ngu?n: http://khoahocphothong.com.vn/newspaper/detail/37075/thuoc-cung-lam-tang-nguy-co-dai-thao-duong.html