Nghiên cứu, bảo tồn phát huy giá trị văn hóa ngưòi Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng
Cơ quan chủ trì thực hiện: Sở Văn Hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Cao Bằng
Chủ nhiệm nhiệm vụ: CN. Sầm Việt An
Thời gian thực hiện: 2020 – 2023
I – Đặt vấn đề
Người Lô Lô tỉnh Cao Bằng thuộc nhóm Lô Lô Đen, chiếm 0,47% dân số toàn tỉnh, với số dân 3.172 người, chiếm 0,47% dân số toàn tỉnh (theo số liệu Kho dữ liệu điện tử chuyên ngành Dân số - KHHGĐ của hai huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm năm 2020), sinh sống tại huyện Bảo Lạc và Bảo Lâm.
Có lẽ do chính địa bàn sinh sống của người Lô Lô ở khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, nơi có chất lượng cuộc sống và dân số thấp, mà cho đến nay, tộc người này vẫn chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm một cách thỏa đáng, số lượng các công trình nghiên cứu về người Lô Lô ít được thực hiện, các tài liệu liên quan đến dân tộc này không nhiều, chỉ có những bài viết, công trình nhỏ lẻ, chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống về tổng quan của dân tộc Lô Lô. Điểu đó cho thấy việc nghiên cứu tổng thể về dân tộc Lô Lô không những góp phần đánh giá hiệu quả nhũng Chương trình, dự án, đề án đã được Nhà nước quan tâm đầu tư mà còn cung cấp tư liệu làm cơ sở để điều chỉnh, xây dụng các kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường và giữ vững an ninh quốc phòng khu vực biên giới và việc định hướng giao lưu kinh tế, văn hóa giữa hai bên biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, bảo tồn phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của người Lô Lô Đen nhằm khơi dậy những giá trị văn hoá đó góp phần phát triển bền vững cộng đồng tộc người Lô Lô trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết, cấp bách.
Tính đến thời điểm hiện tại, việc nghiên cứu, bảo tồn phát huy giá trị văn hóa người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng vẫn là một đề tài còn bỏ ngỏ, hiện nay chưa có công trình nào khảo cứu một cách hệ thống, chuyên sâu về văn hoá người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng mà chỉ có một số công trình viết chung như: “Dân số và dân sổ tộc người ở Việt Nam”; “Việt Nam hình ảnh cộng đồng 54 dân tộc”; “Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Hội thảo ‘“Bàn về tiêu chí xác định thành phần các dân tộc ở Việt Nam”...; tại Bảo tàng tỉnh Cao Bằng, các hiện vật về di sản văn hoá tộc người Lô Lô Đen hiện nay rất ít chỉ có vài bộ trang phục được sưu tầm vào năm 2003 và một số trống đồng, còn lại hầu như thiếu rất nhiều các tư liệu hiện vật có giá trị khác về văn hoá vật thể và phi vật thể, đặc biệt là các hiện vật liên quan đến tín ngưỡng, lễ hội, cưới xin, tang ma, hình ảnh, băng đĩa, truyện cổ, bài ca dao, tục ngữ, bài thuốc chữa bệnh bằng thảo dược trong dân gian...
Trong những năm gần đây, đã có một số bài viết đăng trên các sách báo, tạp chí địa phương về phong tục tập quán, trang phục, nhà ở... Ngoài ra còn một số bài viết được đăng tải trên báo chí và trang thông tin điện tử như (VTC, Truyền hình tiếng dân tộc VTV5, Du lịch Việt Nam)... phần lớn các bài viết chỉ mang tính sơ lược và khái quát về người Lô Lô Đen, chủ yếu tập trung giới thiệu khái quát sơ bộ về tên dân tộc, địa điểm nơi cư trú của đồng bào, một số nghi lễ gắn liền với chu kỳ đời người, một số lễ hội văn hoá đặc trưng của người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng. Tuy nhiên, đây cũng là nguồn tư liệu rất đáng trân trọng và vô cùng quý giá, để chúng tôi kế thừa và tiếp tục thực hiện công trình nghiên cứu chuyên khảo về văn hoá của người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng.
II – Kết quả nghiên cứu:
Nội dung 1: Điều tra, nghiên cứu giá trị di sản văn hóa truyền thống người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng
Ở Cao Bằng, người Lô Lô Đen sinh sống tại các xóm: Khuổi Khon, xã Kim Cúc; Cốc Xả, Nà Van, Khau Chang, Khau Cà, xã Hồng Trị; Ngàm Lồm, xã Cô Ba của huyện Bảo Lạc và các xóm: Cà Mèng, Cà Đổng, Cà Mèng, Cà Pen A, Cà Pen B, xã Đức Hạnh, huyện Bảo Lâm. Theo kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở tỉnh Cao Bằng qua các năm cho thấy: Năm 2009, dân tộc Lô Lô có 2.373 người; năm 2019, có 2.861 người. Theo số liệu Kho dữ liệu điện tử chuyên ngành Dân Số-KHHGĐ của huyện Bảo Lạc và Bảo Lâm năm 2020 tổng số nhân khẩu của dân tộc Lô Lô tại 4 xã của 02 huyện (các xã: Hồng Trị, Kim Cúc, Cô Ba, huyện Bảo Lạc) và xã Đức Hạnh, huyện Bảo Lâm là 3.172 người, chiếm 0,47% dân số toàn tỉnh. Như vậy, từ năm 2009 đến năm 2020, sau 12 năm, dân số dân tộc Lô Lô tăng 799 người
Việc tăng dân số của người Lô Lô chủ yếu là gia tăng tự nhiên, việc gia tăng cơ học rất ít, vì người Lô Lô chủ yếu kết hôn trong nội bộ dân tộc và không kê khai sang tộc danh khác như với một số dân tộc ở phía Bắc Việt Nam nói chung, ở tỉnh Cao Bằng nói riêng. Người Lô Lô tỉnh Cao Bằng được xếp vào nhóm Lô Lô Đen, sinh sống tập trung ở huyện Bảo Lạc và huyện Bảo Lâm, là 02 huyện vùng sâu vùng xa nhất của tỉnh. Họ sống quần tụ trong những làng bản riêng với 100% dân số là người Lô Lô Đen, như: xóm Cốc Xả, Nà Van, Khau Chang, xã Hồng Trị; xóm Ngàm Lồm, xã Cô Ba; xóm Khuổi Khon, xã Kim Cúc, huyện Bảo Lạc; xóm Cà Đổng, Cà Pen A, Cà Pen B, Cà Mèng, xã Đức Hạnh, huyện Bảo Lâm.
Qua kết quả khảo sát điền dã thực tế tại huyện Mèo Vạc, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang và huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng cho thấy địa bàn cư trú của người Lô Lô hầu hết là ở vùng cao nên cách phân bố, bố trí về làng bản, nhà cửa, đường xá... có nhiều yếu tố gần giống với các làng, bản của một số dân tộc khác trong vùng như Mông, Dao, Sán Chỉ... Người Kinh gọi nơi cư trú của người dân là làng, bản, xóm thì người Lô Lô Hà Giang gọi là chải và ghi thêm tên dân tộc ở phía trước, như làng Lô Lô Chải ở Lũng Cú. Ở Cao Bằng, địa vực cư trú của người Lô Lô được gọi theo tiếng Tày như xóm Cốc Xả, xã Hồng Trị; xóm Ngàm Lồm, xã Cô Ba; xóm Cà Đổng, xã Đức Hạnh...
Nội dung 2: Đánh giá giá trị văn hóa và sự giao thoa, biến đổi văn hóa của người Lô Lô Đen trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
Người Lô Lô không có tập quán du canh du cư mà sống định cư hoặc bán định cư (khoảng 20 năm thì chuyển đến một khu vực lân cận). Vì vậy, gần một thiên niên kỷ nay, khu vực cư trú của người Lô Lô không có nhiều thay đổi.
Bản của người Lô Lô Đen tương đối nhỏ, chủ yếu tập trung ở các sườn núi đất, khác với người Lô Lô Hoa sống ở các sườn núi đá, trong xóm có nhiều dòng họ cùng sinh sống, gắn bó với nhau bằng quan hệ láng giềng và quan hệ hôn nhân. Đe duy trì trật tự trong một cộng đồng tự quản cần có luật tục riêng, hệ thống các luật tục của người Lô Lô Đen tuy không được lưu giữ bằng các văn bản nhưng vẫn được tuân thủ chặt chẽ, trong những luật tục ấy có cả nhũng quỹ định về quyền lợi kinh tể cũng như tiêu chuẩn đạo đức truyền thống.
Người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng cư trú cư trú tập trung thành tùng bản, mỗi bản có khoảng từ 30 - 50 hộ gia đình, thuộc nhiều dòng họ cùng sinh sống. Bản của người Lô Lô chủ yếu phân bố trên các sườn đồi, ở lưng chừng núi, nơi gần các khe suối để sinh hoạt. Người Lô Lô nơi đây không cư trú xen kẽ với các dân tộc khác.
Trước đây, người Lô Lô đi lại bằng những con đường mòn xuyên rừng, qua các thung lũng hoặc vượt qua những ngọn núi. Do vậy họ rất có kinh nghiệm trong việc phát rừng, mở những con đường mòn mới để kiếm củi, chặt gỗ và phát nương. Khi cần vận chuyển, người Lô Lô thường hay gánh hoặc vác trên vai, tuy là tộc người sống trên núi cao, nhưng họ không đeo gùi như người Mông hay người Dao, họ thường dùng trâu, bò để kéo gỗ, kéo củi, cày, bừa và dùng ngựa để thồ.
Với địa hình cư trú ở khu vực núi cao, có độ dốc lớn, cách xa trung tâm xã, huyện và thành phố nên việc di chuyển đi lại của đồng bào trước đây rất khó khăn, việc chuyên chở chủ yếu dùng bằng sức người, sức ngựa và trâu, bò thì hiện nay người Lô Lô đã đi lại bằng phương tiện cơ giới, chính vì vậy việc giao lưu giữa các dân tộc được thuận lợi, thường xuyên hơn.
Người Lô Lô Đen Cao Bằng sinh sống tại các xóm: Khuổi Khon, xã Kim Cúc; Cốc Xả, Nà Van, Khau Chang, Khau Cà, xã Hồng Trị; Ngàm Lồm, xã Cô Ba của huyện Bảo Lạc và các xóm: Cà Mèng, Cà Đổng, Cà Mèng, Cà Pen A, Cà Pen B, xã Đức Hạnh, huyện Bảo Lâm. Theo kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở tỉnh Cao Bằng qua các năm cho thấy: Năm 2009, dân tộc Lô Lô có 2.373 người; năm 2019, có 2.861 người. Theo số liệu Kho dữ liệu điện tử chuyên ngành Dân Số-KHHGĐ của huyện Bảo Lạc và Bảo Lâm năm 2020 tổng số nhân khẩu của dân tộc Lô Lô tại 4 xã của 02 huyện (các xã: Hồng Trị, Kim Cúc, Cô Ba, huyện Bảo Lạc) và xã Đức Hạnh, huyện Bảo Lâm là 3.172 người, chiếm 0,47% dân số toàn tỉnh. Như vậy, từ năm 2009 đến năm 2020, sau 12 năm, dân số dân tộc Lô Lô tăng 799 người.
Người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng trồng trọt là hoạt động mưu sinh chính trong nền kinh tế tự cấp tự túc. Hoạt động này đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm để duy trĩ cuộc sống của họ. Sinh sống trên các vùng núi cao, ít có điều kiện khai phá ruộng nước nên đồng bào Lô Lô Đen trồng trọt trên nương đất dốc là chính, việc canh tác phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên.
Về Chăn nuôi là hoạt động kinh tế phụ nhưng rất quan trọng với người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng. Các giống vật nuôi chính của đồng bào là: Bò (Nhụ), ngựa (Mọng), trâu {Dê Nhũ), lợn ỢVà), gà (Gạ), vịt (Cạ Pỉ). Nhìn chung, việc chăn nuôi của người Lô Lô Đen vẫn theo phương pháp chăn thả tự nhiên, có người chăn dắt. Lợn, gà được nuôi nhốt trong chuồng trại không kiên cố. Phụ nữ trong gia đình là người chịu trách nhiệm chăm sóc tìm kiếm thức ăn cho các vật nuôi. Với trâu, bò, đồng bào dùng chủ yếu giải quyết nhu cầu sức kéo và phục vụ cho việc cưới xin, ma chay, tế lễ. Lợn, gà, vịt ngoài phục vụ cho ma chay, cưới xin, lễ tết còn là hàng hóa trao đổi mang ra chợ bán lấy tiền để trang trải cuộc sống thường ngày và mua sắm đồ dùng cho sinh hoạt như xe máy, giường, chiếu, chăn màn...
Nghề thủ công gia đình nhằm thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt và sản xuất trong các gia đình, đây là một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế tự cung tự cấp của nguời Lô Lô. Nghề thủ công của người Lồ Lô gồm: Nghề dệt vải, nghề đan lát, nghề làm ngói...
Địa bàn sinh sống của người Lô Lô Đen chủ yếu là núi đất, với các dải núi đá vôi xen kẽ, thảm thực vật, hệ động vật có phần phong phú và đa dạng. Do vậy việc khai thác từ nguồn thiên nhiên sẵn có như các loại rau, củ, quả, chim, sóc, cầy, cáo... trong rừng là những nguồn cung cấp thực phẩm bổ sung cho các bữa ăn hằng ngày và trong các ngày lễ tết của gia đình và là nguồn dược liệu quý để chữa bệnh, bồi bổ sức khỏe cho con người. Hoặc trong những khi mùa màng thất bát thì việc hái lượm còn cung cấp các loại củ quả thay cho gạo, ngô, sắn.... Không những thế việc đánh bẫy, săn bắt còn có ý nghĩa ngăn chặn sự phá hoại của muông thú, bảo vệ mùa màng.
Khai thác lâm thổ sản của người Lô Lô Đen có sự phân công tương đối rõ ràng, việc săn bắt muông thú là công việc nặng nhọc, có phần nguy hiểm nên công việc này thuộc về nam giới. Còn công việc hái lượm các loại rau, củ, quả nhẹ nhàng hơn sẽ thuộc về nữ giới.
Người Lô Lô cư trú tại các xã vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại khó khăn, cho nên việc mua bán trao đổi không có điều kiện phát triển. Hoạt động kinh tế của họ hoàn toàn mang tính khép kín, tự cấp tự túc. Tại địa bàn cư trú không có chợ hoặc những tụ điểm, trung tâm mua bán. Chính vì thế xưa kia, việc trao đổi mua bán chủ yếu diễn ra trong nội bộ cộng đồng, thỉnh thoảng mới có sự trao đổi với các bản ngoại tộc sống lân cận.
Ngày nay, do kinh tế thị trường phát triển, đã tác động mạnh tới đời sống kinh tế của người Lô Lô, ngoài việc sản xuất, săn bắt, hái lượm... để phục vụ cuộc sống của chính họ, người Lô Lô đã tích cực chăn nuôi, trồng cấy, tìm kiếm các sản vật quý trong vùng để bán. Việc đi chợ để trao đổi, mua bán ngày nay không còn có sự phận biệt về giới, nam hay nữ ai cũng có thể đi chợ nếu thấy cần thiết và sắp xếp được công việc. Mạng lưới chợ phiên trong khu vực người Lô Lô sinh sống hầu tương đối ít, nhóm Lô Lô huyện Bảo Lạc đi chợ phiên Bảo Lạc, chợ xã Hưng Đạo, chợ Lũng Pán; nhóm Lô Lô huyện Bảo Lâm đi chợ Bảo Lạc và chợ Khâu Vai, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang…
Hiện nay, cùng với sự phát triển nền kinh tế - xã hội, sự mở rộng của các hoạt động giao lưu văn hóa, so với các thành tố khác, văn hóa vật chất của người Lô Lô đã và đang có những thay đổi nhanh chóng. Tuy nhiên, so sánh với một số cộng đồng khác, dân tộc Lô Lô vẫn là một trong những dân tộc bảo lưu khá bền vững các giá trị văn hóa vật chất truyền thống như nhà cửa, trang phục, ẩm thực, đồ dùng sinh hoạt, nông cụ và phương tiện vận chuyển. Đốn nay, các yếu tố văn hóa này vẫn hàm chứa nhiều đặc trưng riêng biệt, góp phần khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc Lô Lô
Về văn hóa vật chất của Người Lô Lô Đen: Hiện nay, cùng với sự phát triển nền kinh tế - xã hội, sự mở rộng của các hoạt động giao lưu văn hóa, so với các thành tố khác, văn hóa vật chất của người Lô Lô đã và đang có những thay đổi nhanh chóng. Tuy nhiên, so sánh với một số cộng đồng khác, dân tộc Lô Lô vẫn là một trong những dân tộc bảo lưu khá bền vững các giá trị văn hóa vật chất truyền thống như nhà cửa, trang phục, ẩm thực, đồ dùng sinh hoạt, nông cụ và phương tiện vận chuyển. Đốn nay, các yếu tố văn hóa này vẫn hàm chứa nhiều đặc trưng riêng biệt, góp phần khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc Lô Lô.
Ẩm thực của người Lô Lô Đen có nét đặc trưng riêng biệt, trong các bữa ăn thường ngày của họ phụ thuộc vào sự sắp xếp công 'việc đồng áng và theo vụ mùa. Thông thường, bữa ăn của họ thường chia làm ba bữa, trong đó, bữa sáng và bữa tối được coi là những bữa ăn chính; các bữa ăn chính được tổ chức sớm muộn khác nhau, tùy tính chất công việc của từng mùa (mùa đông hay mùa hè). Ngày mùa (mùa làm nương rẫy) dường như bữa trưa được coi là bữa phụ, bữa ăn này ăn ngay tại nương với các đồ ăn nguội được chuẩn bị sẵn đem theo từ nhà. Vào dịp nông nhàn, đồng bào chỉ ăn hai bữa: Bữa sáng ăn muộn vào khoảng 8 giờ, bữa chiều ăn sớm vào khoảng 5 giờ.
Nhà ở của Người Lô Lô Đen Cao Bằng, Hiện nay người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng vẫn lưu giữ, bảo tồn kiến trúc nhà sàn truyền thống, nhà được làm bằng gỗ, mái lợp ngói âm dương, cột được kê trên hòn đá tảng (phà xăng), vách (tù phùy) thưng bằng ván gỗ bao che xung quanh nhà, sàn nhà (puy puệ) bằng ván gỗ kết hợp cùng tre nứa đập dập, dàn phẳng (nhà có điều kiện kinh tế làm sàn gỗ, nhà không có điều kiện làm sàn bằng tre nứa), mái (pùy củ) lọp ngói âm dương. Dưới gầm sàn là bếp nấu rượu, nấu ăn cho gia súc, là nơi nuôi nhốt gia súc, gia cầm, để cối xay giã gạo và để công cụ lao động sản xuất.
Nhà sàn cửa người Lô Lô Đen có cấu trúc vì kèo nhiều cột (6 cột với nhiều cột trốn khác) 4 mái, nhà được hoạt bố trí từ 5 đến 7 gian (5 gian chính, 2 gian phụ - tức là 2 chái), trong đó có một chái là nơi để bắc cầu thang Ịên sàn. Về kết cấu khung nhà, mái và sàn nhà của người Lô Lô giống của người Tày, cụ thể: Các cột (pùng mạ), kèo (mà lạ), xà ngang (xạ), kể cả thượng lương cũng như các xà dọc (xạ khoảng) đều được bào và đục mộng xuyên để lắp ráp các bộ phận khung nhà với nhau. Sàn nhà được đặt trên thanh xà dầm ngang và xà dầm dọc xuyên qua các lỗ đục của cột, rồi đặt các thanh đòn sàn, sau đó đặt ván hay dát tre lên làm mặt sàn. Về khung mái, đòn nóc (xàng mèng), đòn tay (hành thèo) được làm từ gỗ, còn rui (ngòa lệt) có thể làm bằng gỗ hoặc tre...
Trước đây, người Lô Lô tỉnh Cao Bằng nhốt gia súc, gia cầm ở dưới gầm sàn. Việc nhốt gia súc, gia cầm hiện nay của người Lô Lô huyện Bảo Lâm vẫn duy trì thực hiện như truyền thống, còn người Lô Lô huyện Bảo Lạc đã di dời chuồng ừại ra vị trí khác do họ đã ý thức được việc nuôi nhốt gia súc, gia cầm ở dưới gầm sàn là mất vệ sinh, là nguyên nhân gây ra bệnh tật, ảnh hưởng đến sức khỏe.
Trang phục của Người Lô Lô Đen: Trang phục là thành tố văn hóa không thể thiếu trong đời sống mỗi tộc người. Ngoài chức năng để che thân, giữ ấm cho cơ thể,trang phục truyền thống còn phản ánh rõ nét về đặc trang văn hóa, nếp sống tộc người, thể hiện trình độ phát triển và quan niệm thẩm mỹ của tộc người ấy,... Qua đó có thể phân biệt được bản sắc cũng như tập quán và lối sống giữa các tộc người, tạo nên sắc thái khác nhau giữa các tộc người, thậm chí giữa các nhóm địa phương trong một tộc người, Mặc dù có nhiều yếu tố tác động trong quá trình lịch sử và giao lưu văn hóa với nhiều tộc người anh em, cho đến nay bộ trang phục cổ truyền phụ nữ Lô Lô ở nước ta cũng như tỉnh Cao Bằng vẫn còn bảo tồn tốt những giá trị văn hóa truyền thống. Việc sử dụng trang phục truyền thống hiện nay vẫn được người phụ nữ Lô Lô duy trì, chỉ có thanh thiếu niên, nhất là nam giới là ít sử dụng.
*Một số tập quán liên quan đến chu kỳ đời người của người Lô Lô Đen:
Chu kỳ đời người (Nghi lễ vòng đời) “Là những nghi lễ liên quan đến cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết”. Như vậy nghi lễ vòng đời gắn liền với chu kỳ sinh học của con người theo chuỗi thời gian, liên quan trực tiếp đến sự thay đổi sinh thể và sự thay đổi xã hội, văn hóa.
Nghi lễ vòng đời của người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng là hệ thống các nghi lễ chính thức phản ánh đặc trưng văn hóa truyền thống của người Lô Lô, thông qua các nghi lễ liên quan đến sinh đẻ và thời thơ ấu, tuổi trưởng thành, tuổi già, tang ma. Nghi lễ vòng đời của người Lô Lô được bộc lộ khá cụ thể và mang nhiều giá trị.
Cũng như các dân tộc khác, chu trình vòng đời mỗi con người của người Lô Lô Đen có nhiều mốc đánh dấu những bước ngoặt quan trọng. Khi đứa trẻ chào đời được dòng họ, cộng đồng chấp nhận bằng lễ đặt tên, lớn lên dựng vợ gả chồng bằng nghi lễ cưới xin, để rồi từ giã cuộc đời bằng những nghi lễ tang ma. Mỗi nghi lễ trong chu trình ấy đều có những quy định rất chặt chẽ, bất thành văn và được cả cộng đồng chấp nhận. Nếu ai không tuân thủ tức là tự mình tách khỏi cộng đồng tộc người, không được cộng đồng chấp thuận.
Nghi lễ sinh đẻ: Giống với các tộc người khác, có con là điều mong muốn của mỗi cặp vợ chồng người Lô Lô Đen. Đứa trẻ ra đời không chỉ là niềm vui của mỗi gia đình mà còn là niềm vui chung của cả cộng đồng, làng bản. Phụ nữ Lô Lô Đen thường sinh đẻ tại nhà, có sự giúp đỡ của bà đỡ hoặc mẹ chồng, mẹ đẻ. Thông thường phụ nữ Lô Lô sinh tại gian phía ngoài hiên hoặc chái nhà gần với nơi để thóc, ngô và nhất thiết phải xa bếp lửa. Sau khi sinh, sản phụ được chuyển đến nằm cạnh bếp lửa trong thời gian 2 tuần, sau đó chuyển vào buồng. Khi chưa đủ 33 ngày cữ, sản phụ không được phép đi qua bàn thờ tổ tiên.
Nghi lễ đầy tháng: Sau khi sinh được 33 ngày, theo quan niệm để đủ vía cho cả mẹ và con, gia đình sẽ làm lễ đặt tên cho em bé (kể cả con trai hay con gái). Trong lễ này, gia đình phải đi mời thầy cúng về để thực hiện các nghi lễ cúng và chuẩn bị lễ vật cúng. Lễ vật gồm có: 1 con gà mái, xôi, rượu, hương (nếu không có gà thì thay bằng vài con cá sông đã được nướng chín). Lễ vật cúng được đặt trên 1 chiếc mâm gỗ bày dưới bàn thờ tổ tiên. Sau khi bày xong lễ vật, thầy cúng trong trang phục truyền thống (quần áo chàm, đầu đội khăn xếp) ngồi ở tư thế hướng mặt ra cửa, tay cầm quả bầu khô và bắt đầu thực hiện nghi lễ cúng. Nghi lễ cúng được thực hiện 2 lần (cúng sống sau khi cắt tiết con vật, cúng chín sau khi con vật được nấu chín). Sau khi thực hiện xong nghi lễ cúng báo tổ tiên, gia đình tổ chức bữa cơm mời anh em, họ hàng đến dự cùng ăn uống vui vẻ, chúc mừng cho gia đình có thêm thành viên mới, chúc sức khỏe cho mẹ và em bé. Trước khi ra về, thầy cúng được gia đình biếu một nắm xôi, con gà hoặc miếng thịt và một ít tiền. Nếu gia đình nào không có điều kiện thì lễ vật biếu thầy cúng chỉ cần 1 chiếc đùi gà với ý nghĩa mang tính chất cảm ơn.
Đến dự lễ đặt tên cho bé, quà tặng của bà ngoại là quần áo trẻ em và 1 chiếc nôi, còn anh em thân thích thì quà mừng cho bé là những bộ quần áo mới hoặc ít tiền mừng.
Trong lễ đặt tên, bố mẹ em bé sẽ là người quyết định đặt tên cho con mình, miễn sao không được trùng với tên của người già trong họ là được. Theo tập quán của người Lô Lô Đen, khi có con đầu lòng, bố mẹ sẽ thầy đổi cách gọi tên (gọi theo tên con).
Sau lễ đặt tên, nếu sức khỏe của sản phụ bình thường thì sẽ trở lại lao động, sinh hoạt cùng gia đình, còn nếu sức khỏe chưa hồi phục thì họ vẫn được nghỉ ngơi thêm một thời gian nữa.
Cưới xin: Trong quan niệm truyền thống của người Lô Lô Đen, hôn nhân không những là yếu tố để duy trì nòi giống, thể hiện tình cảm giữa nam và nữ mà còn phản ánh giá trị đạo đức tộc người. Theo đó những nguyên tắc trong hôn nhân đã trở thành chuẩn mực quan trọng trong quan hệ xã hội tộc người.
Đối với người Lô Lô Đen, hôn nhân là sự việc hệ trọng trong chu kỳ vòng đời. Họ mong ước có con cái để duy trì nòi giống, đặc biệt là có con trai để phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già và có người thờ cúng tổ tiên, đồng thời tăng thêm vị thế uy tín cho dòng họ. Cha mẹ nào cũng mong muốn con cái đến tuổi trưởng thành phải lập gia đình. Việc dựng vợ, gả chồng cho con cái trở thành trách nhiệm của bố mẹ.
Việc kết hôn của người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng hầu như thường do bố mẹ sắp đặt, không hoàn toàn xuất phát từ tình yêu đôi lứa. Họ thường đính ước cho con cái ngay từ khi mới chào đời. Khi con cái đến tuổi kết hôn thì nhà trai sẽ chủ động đặt vấn đề với nhà gái. Còn nếu như đôi trai gái tự do tìm hiểu yêu nhau mà cha mẹ không đồng ý thì rất khó tiến tới hôn nhân. Có thể nói quan niệm hôn nhân của người Lô Lô Đen trước đây mang nặng tư tưởng cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, làm cho hôn nhân của con cái bị động, thậm chí bị ép duyên. Nhưng thực tế lại cho thấy hầu hết các cuộc hôn nhân trước kia do cha mẹ sắp đặt thì họ vẫn sống hạnh phúc, gắn bó với nhau đến cuối đời.
Để điều hành các nghi lễ trong quá trình hôn nhân, người Lô Lộ .Đen cần đến một vai trò - nhân vật rất quan trọng - đó là các ông bà mối (hay còn gọi là Quan lang). Đây là những người đại diện cho gia đình cô dâu chú rể, là người am hiểu phong tục tập quán sẽ kết nối giữa 02 gia đình thông gia và làm các thủ tục, nghi lễ trong đám cưới.
*Giá trị văn hóa đặc sắc của người Lô Lô Đen:
Nghi lễ tang ma: tang ma là một hoạt động mang tính cộng đồng cao, là nghi Ịễ vòng đời quan trọng nhất. Trong nghi lễ tang ma của người Lô Lô Đen, trống đồng là nhạc cụ quan trọng không thể thiếu và được coi là tài sản vô cùng quý báu được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Họ quan niệm lúc có người chết, hồn được đưa sang thế giới bên kia phải có chiếc trống đồng, nếu không tổ tiên sẽ không nhận ra con cháu của mình. Nhũng nghi lễ trong tang ma của người Lô Lô Đen là một giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc, hàm chứa nhiều thông tin liên quan đến lịch sử tộc người, thể hiện cách ứng xử giữa người sống và người chết, quan niệm về cuộc sống sau khi chết, ảnh hưởng của cái chết tới cộng đồng.
Người Lô Lô Đen chỉ cúng vào lễ tết, rằm tháng Bảy... chứ không làm giỗ cho người đã khuất, vì vậy, việc làm tang ma cho người chết có ý nghĩa rất quan trọng, được đồng bào tổ chức với quy mô lớn. Các nghi lễ trong đám tang gồm: Tắm rửa, khâm liệm (Tuy so lê)', Lễ mở đường cho vong linh người chết (Của phó)', Lễ dâng thức ăn cho người chết (Lầu mỏ khụ); Lễ nhập quan (Sò si pe); trao tài sản (Làu mỏ mế); Cúng cơm (mù phí); Đưa tang (cúng gỏ chê) và hạ huyệt (chò sẩy pè). Khi tổ chức đám tang, tùy theo hoàn cảnh kinh tế gia đình mà làm tang lễ to hay nhỏ những nhìn chung ngày nay đám tang của người Lô Lô Đen vẫn rất tốn kém, thường mổ bò, lợn, gà. Một số kiêng kỵ trong đám tang cho đến nay vẫn được thực hiện nghiêm ngặt như khi thi hài còn quàn trong nhà, con cái đến bữa ăn không được dùng đũa, sau khi chôn cất xong con trai cả không được đi chơi nhà họ hàng và không rửa chân tay trong vòng 7 ngày... Tang ma của người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng được tiến hành theo hai nghi lẹ làm ma tươi và làm ma khô. Làm ma tươi tức là lễ chôn cất thể xác hay làm ma, làm ma khô tức là đưa ma về với thế giới tổ tiên.
Lễ cầu mưa: Theo tập quán, lễ cầu mưa thường được tổ chức vào khoảng đầu tháng 3 âm lịch hằng năm nhưng không được qua ngày mồng 10, đây là thời điểm chuẩn bị bắt đầu cho vụ mùa mới trong năm. Ngày tổ chức phải do thầy cúng lựa chọnvà phải là ngày con rồng. Theo quan niệm của người Lô Lô nói riêng, người Việt nói chung, rồng được xem là thủy tổ của dân tộc, là con của trời, tượng trưng cho sự tốt đẹp, may mắn, thịnh vượng và là biểu tượng của sức mạnh và uy quyền. Rồng là hình ảnh của vị thần phun nước làm mưa, mang đến mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi, nảy nở, có khả năng điều hòa nguyên khí của trời đất, ban phát sự tốt lành cho trần gian. Đây là tín ngưỡng trong đời sống tâm linh, gắn kết tĩnh cộng đồng và chia sẻ những điều tốt đẹp trong cuộc sống của người Lô Lô. Lễ cầu mưa được tiến hành dưới gốc cây to già nằm trong khu rừng thiêng của bản, khu rừng thiêng nằm sâu trong bản, có nhiều cây cổ thụ. Trước khi tổ chức lễ cầu mưa, để cho lễ cầu mưa được diễn ra thuận lợi và suôn sẻ, dân làng tổ chức họp bàn thống nhất chọn thầy cúng, chọn ngày tốt, chọn các lễ vật, chọn người tham gia các hoạt động, chọn cử người đi mời thầy cúng, đi mua các con vật để tế lễ, đóng góp lễ vật, phục vụ thầy, nấu ăn... Thành phần tham gia lễ cầu mưa là nam giới và trẻ em, trong đó có cả trẻ em nữ còn trong độ tuổi thiếu nhi. Phụ nữ Lô Lô không được tham gia thực hiện nghi lễ cầu mưa tại khu rừng thiêng mà chỉ ở nhà nấu ăn, chuẩn bị mâm cúng cho gia đình và tiếp đãi khách.
Lễ cầu mưa gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ là những nghi lễ do thầy cúng chủ trì, điều hành các nghi thức trong suốt quá trình diễn ra trong buổi lễ với sự tham gia hỗ trợ của người dân. Phần hội diễn ra sau khi các nghi lễ hoàn thành, người dân quây quần cùng nhau uống rượu, chế biến đồ ăn từ mâm lễ vừa dâng cùng nhau ăn uống…
Quan hệ dòng họ, làng bản, tín ngưỡng dân gian của người Lô Lô Đen:
Tín ngưỡng thò' cúng tổ tiên đã tồn tại rất lâu đời trong cộng đồng người Lô Lô Đen. Họ quan niệm tổ tiên là những người thuộc thế hệ trước đã sinh ra minh và đồng bào phân làm hai lóp, tổ tiên gần (dùy khế) gồm từ 3 đến 5 đời (bố mẹ, ông bà, cụ) trở lại và tổ tiên xa là những người thuộc từ đời thứ 4 hoặc thứ 6 trở lên.
Mỗi gia đình Lô Lô Đen đều lập ban thờ tổ tiên. Đây là việc làm thể hiện sự hiếu thảo của con cháu dành cho ông bà, cha mẹ và những người trong họ tộc mình. Họ quan niệm tổ tiên sẽ phù hộ cho mình được bình an, con cháu có sức khỏe, gặp mọi vận may trong cuộc sống.
Bàn thờ tổ tiên của người Lô Lô Đen được bố trí ở ở sát vách của gian giữa, đối diện với cửa chính. Những tổ tiên được rước lên bàn thờ được tượng trưng bằng những hình nhân làm bằng gỗ và được cắm vào mo tre, cài vào vách. Vị trí thứ bậc gần xa của dùy khế được sắp xếp từ trái sang phải (bố mẹ, ông bà, cụ).
Hàng năm đồng bào cúng tổ tiên vào dịp tết Nguyên đán và tết rằm tháng 7. Khi trong nhà có việc cưới xin, tang ma, sinh nở chủ nhà phải dâng lễ trình tổ tiên. Ngoài ra, người Lô Lô Đen còn cúng tổ tiên mỗi khi người nhà bị ốm đau, hoạn nạn. Ngoài bàn thờ tổ tiên, trong nhà còn có khoan li (hơi thờ những người chết bất đắc kỳ tử) được đặt ở góc nhà dưới bàn thờ tổ tiên hay ở gian có lò bếp, gia cụ. Chỉ có chủ nhà mới được quét dọn nơi thờ cúng này.
*Ngôn ngữ nghệ thuật dân gian của người Lô Lô Đen:
Ngôn ngữ: Cùng với 5 dân tộc anh em là Phù Lá, Si La, cống, La Hủ, Hà Nhì, Lô Lô thuộc bộ phận các dân tộc ngữ hệ Tạng - Hán, nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến.Theo một số nghiên cứu của các nhà sử học thì dân tộc Lô Lô đã từng có chữ viết. Đó là bộ chữ tượng hình với 140 chữ cái dùng phương pháp ghép để diễn đạt ý nghĩa, được xác định vào khoảng thế kỉ XIV. Những thần thoại, truyền thuyết, lời thơ dân ca của người Lô Lô còn được lưu truyền đã thể hiện nhân sinh quan, thế giới quan của đồng bào trong từng giai đoạn lịch sử. Đáng chú ý nhất là sự tích về sự sáng tạo ra loài người, thần thoại về sự hình thành thế giới mang những môtíp chung xuất hiện trong văn học dân gian nhiều dân tộc thể hiện sự giao thoa văn hoá trong cộng đồng các dân tộc miền núi phía Bắc và rộng hơn nữa. Tuy nhiên, hiện nay người Lô Lô không còn sử dụng chữ viết này.
Văn học dân gian: Kho tàng văn học dân gian của người Lô Lô Đen phong phú và đặc sắc, bao gồm thơ ca, dân gian, tục ngữ, múa, nhạc..., đặc biệt là truyện cổ. Phổ biến là những truyện cổ về sự tích sinh ra trời, đất, loài người và muôn vật với nạn hồng thủy, truyện sinh ra các nhóm dân tộc khác nhau, các dòng họ khác nhau. Đặc biệt, trống đồng có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người Lô Lô Đen. Đồng bào cho rằng chỉ khi nghe được trống đồng thì hồn người chết mới tìm được đường về với tổ tiên. Muốn dùng trống đồng phải tuân thủ các nghi lễ: Mời thầy cúng đến làm lễ xin phép tổ tiên, gọi hồn trống để đem trống ra sử dụng. Nếu đi mượn trống của dòng họ khác thì phải mang gà để cúng tổ tiên của chủ trống đó mới được đem trống về sử dụng. Mỗi đám tang ít nhất phải sử dụng từ hai chiếc trống đồng trở lên.
Dân ca: Người Lô Lô coi dân ca của dân tộc mình như một món ăn tinh thần không thể thiếu được. Dân ca của dân tộc Lô Lô đã tạo nên sự gắn kết cộng đồng, nó có mặt trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người Lô Lô. Dân ca của người Lô lô gũi với đời sống sinh hoạt thường ngày của họ. Họ hát mỗi khi gặp nhau, trước khỉ ngồi mâm uống rượu (hát mời cơm), trên đường đi làm nương. Hầu như các mặt sinh hoạt chủ yếu về vật chất và tinh thần từ dĩ vãng xa xưa cho đến đời sống thường nhật đều được phản ánh trong dân ca của họ. Qua những bài ca thần thoại “Trời, đất, con người”, “Mẹ trời, mẹ đất” hay “Chuyện mặt trời, mặt trăng”... phản ánh rõ vũ trụ quan tối thiếu và tinh thần đấu tranh chinh phục thiên nhiên của họ. Hàng loạt bài ca ca ngợi tinh thần lao động cần cù và dạt dào tình yêu cuộc sống. Những mốc lớn của cuộc đời mỗi con người: Cưới hỏi, tang ma... đã đi vào dân ca một cách hết sức tự nhiên. Sinh hoạt dân ca Lô Lô thường vào lúc nông nhàn nhân tuần trăng sáng, đặc biệt vào dịp trong làng có đám cưới, đám ma. Lời ca làm cho đám cưới thêm vui và đám ma nhẹ bớt nỗi u buồn và cũng như múa ma, để tiễn biệt người quá cố về với tổ tiên. Đó là triết lý Lô Lô và trở thành tập quán. Dân ca Lô Lô có một đặc điểm chung là đều đươc sáng tác theo thể thơ năm chữ và từng cặp hai câu bổ sung nhau. Ví dụ: “Sắp đến lúc làm nương, sắp đến lúc làm ruộng” lời ca nhìn chung là mộc mạc, gần gũi với ngôn ngữ hàng ngày. Cái gây xúc động cho người nghe chính là nội dung bài ca.
Dân vũ (Múa dân gian) là một hình thức sinh hoạt không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng và được thể hiện duy nhất trong đám ma. Các điệu múa trong tang ma của người Lô Lô Đen khá phong phú, đa dạng, mô phỏng những động tác trong lao động sản xuất, sinh hoạt... và thường mang ý nghĩa rất riêng biệt. Các điệu múa đi liền với nhạc cụ là trống đồng. Múa trong tang ma của người Lô Lô là sinh hoạt văn hóa mang tính cộng đồng cao, chứa đựng nhiều giá trị nhân văn. Các điệu múa đều mang tính tập thể mà trong đó mỗi người lại thể hiện hết tài năng, cảm xúc của mình.
Nhạc cụ của người Lô Lô Đen là Trống đồng là loại nhạc cụ, khí cụ quý hiếm và quan trọng bậc nhất đối với người Lô Lô Đen. Âm hưởng trầm vang của trống đồng đã đi vào tình cảm, đi vào phong tục của người Lô Lô. Nhạc khí truyền thống này được sử dụng duy nhất trong tang ma. Trống đồng với người Lô Lô vừa là nhạc cụ, là khí cụ không thể thiếu và được coi là tài sản vô cùng quý báu được gìn giữ từ đời này sang đời khác trong các dòng họ, bảo quản bằng cách chôn xuống đất.
*Thực trạng giao thoa và biến đổi của các giá trị văn hóa của người Lô Lô Đen: Thực tế cho thấy, hiện nay văn hóa truyền thống của các dân tộc nói chung, người Lô Lô nói riêng đã không ngừng giao thoa, biến đổi như: Nhà ở, đời sống kinh tế, các nghi lễ tín ngưỡng, hôn nhân, trang phục truyền thống...
Biến đồi về nhà ở:
Người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng hiện nay còn gìn giữ, bảo tồn gần như nguyên vẹn giá trị kiến trúc nhà ở truyền thống, chỉ thay đổi ở một số kết cấu như: Thay bằng mái lọp ngói âm dương bằng tấm lọp fỉbro xi măng, một số chân cột đổ bê tông.
Kiến trúc nhà truyền thống của người Lô Lô Hà Giang: Hiện nay, trong quá trình hội nhập và phát triển, kiến trúc nhà ở truyền thống của người Lô Lô Hà Giang đã có sự giao thoa, biển đổi, trong bản của người Lô Lô đã xuất hiện những nhà xây cao tầng, hiện đại.
Biến đổi về đời sống kinh tế
Hình thái kinh tế chính của người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng là trồng trọt và chăn nuôi, ngoài ra còn có nghề thủ công gia đình và hoạt động khai thác lâm, thổ sản hai hoạt động này chỉ mang tính chất phụ và phục vụ nhu cầu trong gia đình đồng thời chỉ thực hành vào những lúc nông nhàn chứ không thường xuyên. Trong thực tiễn cuộc sống để tồn tại và phát triển việc giao lưu kinh tế, văn hóa với các dân tộc anh em là không thể thiếu. Trong những năm gần đây người Lô Lô đã giao lưu, học tập kinh nghiệm sản xuất của những dân tộc anh em trong vùng cũng như sự hỗ trợ từ các dự án của nhà nước. Chính sự giao tiếp mạnh mẽ ấy đã thúc đẩy rất nhanh quá trình thay đổi trong hoạt động sản xuất. Cụ thể của việc thay đổi đã được thể hiện qua sự đổi mới trong cả trồng trọt và chăn nuôi.
Biến đổi về hôn nhân:Hiện nay dưới sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự hội nhập và giao lưu văn hóa nên nhận thức, quan niệm và quy tắc về hôn nhân, về nghi thức hôn nhân truyền thống của người Lô Lồ hiện nay đang dần có những giao thoa, biến đổi, như: Độ tuổi kết hôn, Tiêu chí chọn vợ chồng; Biến đổi về quan niệm hôn nhân; Biến đổi về nguyên tắc hôn nhân, nghi lễ và hình thức hôn nhân; Biến đổi do tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội;Biến đổi và xu hướng biến đổi trang phục truyền thống; Biến đổi của nghi lễ tín ngưỡng…
Nội dung 3: Định hướng và đề xuất giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa của người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng
Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng, một trong 16 dân tộc có số dân dưới 10.000 người là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay, có ý nghĩa lớn trong việc giáo dục thế hệ trẻ về lịch sử văn hóa của dân tộc, đồng thời còn là phương tiện để giới thiệu quảng bá về hình ảnh vùng đất con người Cao Bằng cho các du khách trong và ngoài nước, tạo điều kiện để thực hiện chiến lược phát triển du lịch Cao Bằng góp phần tăng trưởng kinh tế - xã hội của tỉnh. Để thực hiện có hiệu quả việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống người Lô Lô Đen tỉnh Cao Bằng, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
1. Tiếp tục tăng cường nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các cơ quan liên quan trong việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của tỉnh; thực hiện nhiệm vụ khoa học về văn hoá, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá đặc sắc của tỉnh; tổ chức thực hiện có hiệu quả Chuông trình mục tiêu quốc gia về văn hoá, quy hoạch, dự án phát triển văn hoá.
2. Bảo tồn di sản văn hoá của các dân tộc; khuyến khích tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân nghiên cứu, bảo quản, xây dựng đề án bảo tồn, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể; áp dụng các biện pháp cần thiết của chính quyền các cấp để bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, ngăn chặn nguy cơ làm mai một, sai lệch hoặc thất truyền. Có chính sách tạo điều kiện bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết của các dân tộc. Khuyến khích sưu tầm, biên soạn, dịch thuật, thống kê, phân loại và lưu giữ các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian...
3. Khơi dậy sức sáng tạo chủ động của nhân dân trong các hình thức sinh hoạt cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa trong thời kỳ mới. Giữ gìn truyền thống văn hoá trong gia đình, trong làng, bản, tạo điều kiện cho quần
4. Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa. Tuyên truyền cho đồng bào biết tự hào và trân trọng những giá trị tinh thần, đạo đức, phong tục tốt đẹp của mình, phát huy các giá trị văn hóa tích cực truyền thống trong cuộc sống mới. Xây dựng và thực hiện quy ước văn hóa trên cơ sở kết họp những yếu tố truyền thống tốt đẹp. Tổ chức các hình thức hoạt động văn hóa lành mạnh để thu hút Nhân dân tham gia.
5. Nghiên cứu, khôi phục, bảo tồn các Lễ hội truyền thống, các nghi lễ tín ngưỡng; bảo tồn, phát huy dân ca, dân vũ, dân nhạc; bảo tồn, phục dựng nghề thủ công truyền thống gắn với phát triển du lịch; xây dựng dự án bảo tồn làng, bản văn hóa truyền thống gắn với phát triển du lịch; tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, đào tạo du lịch cộng đồng Homestay; hướng dẫn xây dựng các sản phẩm du lịch; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng làm du lịch cho người dân, từng bước nâng cao nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách.
6. Đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa để đưa các giá trị văn hóa trở thành sản phẩm du lịch trong quá trình hội nhập hỉện nay.
7. Tiếp tục quan tâm chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chương trình bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc; cân đối phân bổ ngân sách thực hiện các dự án thuộc Chương trình. Có chính sách hỗ trợ công tác bảo tồn, phát triển văn hoá, công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ văn hoá và văn nghệ sĩ các dân tộc trong tỉnh; lồng ghép các chương trình đầu .tư vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn vào việc hỗ trợ cơ sở vật chất, trang thiết bị văn hoá để nâng cao mức hưởng thụ về văn hoá cho đồng bào các dân tộc.
IV – Kết luận và kiến nghị:
Là một trong những cư dân có mặt ở nước ta từ rất sớm, người Lô Lô Đen đã khai phá vùng biên giới thành những làng bản trù phú. Là một dân tộc thiểu số, sống quần cư và tách biệt với nhiều cộng đồng dân tộc khác nhưng họ vẫn giữ nguyên những nét truyền thống trong đời sống tín ngưỡng. Đặc biệt sắc màu văn hóa được thể hiện qua những nghi lễ trụyền thống như: Lễ cúng tổ tiên, lễ cầu mưa, những bài dân ca, truyện cổ, những điệu múa, trống đồng, trang phục... Trải qua nhiều thế hệ, trong cuộc đấu tranh sinh tồn, họ đã sáng tạo, gìn giữ, phát triển những nét văn hóa mang bản sắc riêng của dân tộc mình, được đánh dấu bằng phong tục tập quán, bộ trống đồng, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, vốn dân ca phong phú, đặc sắc mang những nét đặc trưng riêng.
Với những nét văn hóa độc đáo đó, người Lô Lô Đen đã góp phần đưa nền văn hóa Việt Nam trở nên phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, trước xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay thì việc gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam nói chung và các dân tộc ít người nói riêng, trong đó có người Lô Lô Đen là một công việc cần thiết và cấp bách.
Kiến nghị:
Triển khai công tác tuyên truyền thông qua các hoạt động văn hóa, trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao nhận thức của Nhân dân về bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; Có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân nắm giữ và có công phổ biến các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc như công nhận Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú...; Nghiên cứu, lựa chọn di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu lập hồ sơ trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.