Ứng dụng KH&CN bảo tồn và phát triển nguồn gen cây ăn quả đặc sản trên địa bàn tỉnh
27/04/2018
Lượt xem: 765
Cây ăn quả là cây trồng có giá trị kinh tế cao, có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở nhiều địa phương, giúp người nông dân xóa đói giảm nghèo và đi lên làm giàu.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất cũng như phát huy tiềm năng về điều kiện tự nhiên của địa phương. Tỉnh Cao Bằng nói chung và các huyện có nguồn gen cây ăn quả đặc sản nói riêng, trong những năm gần đây đã cải tạo, quy hoạch, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào phục tráng và sản xuất giống cây ăn quả nói chung và cây ăn quả có múi nói riêng nhằm giúp các hộ nông dân mở rộng quy mô sản xuất cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Nhiều giống cam quýt đặc sản tại địa phương như cam Trưng Vương, quýt Trà Lĩnh, quýt Hà Trì, quýt Trọng Con, quýt Hoa Thám có chất lượng tốt, ngon, ngọt, mùi thơm hấp dẫn, có giá trị dinh dưỡng cao được thị trường ưa chuộng. Với giá bán 30 – 40 nghìn đồng/kg cho thu nhập bình quân trên 60 triệu đồng/hộ gia đình, đã giúp người dân xóa đói giảm nghèo.
Mặc dù có lợi thế song một số cây ăn quả đặc sản của tỉnh vẫn chưa được phát triển tạo ra hàng hóa có giá trị kinh tế cao. Phần lớn cây ăn quả được trồng dưới dạng phân tán trong các vườn tạp, không có giống thuần. Công tác giống, thâm canh và các biện pháp kỹ thuật chưa được quan tâm áp dụng. Những năm gần đây diện tích, sản lượng cũng như chất lượng của cam, quýt Cao Bằng bị suy giảm mạnh, nhiều vườn đã bị thoái hóa nặng nề.
Trước thực trạng trên, Sở KH&CN Cao Bằng đã ký hợp đồng thực hiện nhiệm vụ KH&CN với Viện Bảo vệ thực vật liên quan đến vấn đề phát triển cây ăn quả tại Cao Bằng. Qua khảo sát, xác định nguyên nhân gây thoái hóa cây ăn quả trên địa bàn tỉnh của Viện bảo vệ thực vật đã cho thấy: Chưa có nguồn cung cấp cây giống có chất lượng được tuyển chọn cung ứng cho sản xuất. Người dân thường sử dụng cây giống bằng tự chiết cành mà chưa sử dụng cây giống có chất lượng tốt, sau trồng vài tháng đến 1 năm cây giống trồng mới tiếp tục bị nhiễm bệnh; vùng cam, quýt đã trồng lâu đời do đó tích lũy nguồn sâu bệnh hại trên đồng ruộng rất lớn đặc biệt bệnh greening, các bệnh virus và một số bệnh hại trong đất khác; thói quen canh tác nhờ trời, bón phân không cân đối, sử dụng phân hóa học trong thời gan dài, làm cho đất bị trai cứng, cây không lấy được dinh dưỡng; các biện pháp canh tác như tỉa cành tạo tán, bổ sung phân hữu cơ, chế phẩm sinh học cải tạo đất, sử dụng các chất điều tiết sinh trưởng để tăng ra hoa, đậu quả hầu như chưa được tiến hành, chủ yếu là để tán cây phát triển tự nhiên; điều kiện thời tiết khí hậu diễn biến bất lợi khô hạn kéo dài, dẫn đến cây yếu, dễ nhiễm các loại sâu bệnh; nhận thức của người nông dân còn bị hạn chế, việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong quản lý tổng hợp từ thâm canh, quản lý sâu bệnh vào sản xuất còn hạn chế, chủ yếu vẫn trồng theo phương thức quảng canh nên chất lượng còn thấp; diện tích trồng trọt còn nhỏ lẻ, manh mún nên việc liên kết trong sản xuất kém, khả năng đầu tư, thâm canh của các mô hình chưa cao nên chưa phát huy được lợi thế của cây trồng bản địa.
Từ những kết quả nghiên cứu, Viện Bảo vệ Thực vật đã đưa ra quy trình công nghệ sản xuất cây giống sạch bệnh bao gồm các giải pháp công nghệ có liên quan: Qui trình kỹ thuật vi ghép đỉnh sinh trưởng để làm sạch bệnh Greening và Tristeza trên cây có múi; ứng dụng công nghệ sinh học phân tử để chuẩn đoán bệnh greening và tristeza trên cây có múi; qui trình sản xuất giống cây có múi sạch bệnh trên cơ sở hệ thống nhà lưới 3 cấp; qui trình sản xuất cây giống sạch bệnh bằng kỹ thuật ghép mắt nhỏ có gỗ và hỗn hợp làm bầu không đất được cải tiến cho phù hợp với nguồn nguyên liệu sẵn có của địa phương; qui trình trồng mới cây có múi sạch bệnh.
Được sự hỗ trợ từ nguồn kinh phí sự nghiệp KH&CN, Viện Bảo vệ thực vật đã triển khai một số đề tài, dự án KH&CN, như: “Ứng dụng công nghệ vi ghép đỉnh sinh trưởng để bảo tồn và phát triển giống cam quýt Hòa An”, “Ứng dụng kỹ thuật vi ghép đỉnh sinh trưởng để phục tráng và phát triển giống quýt đặc sản Trà Lĩnh”, “Ứng dụng KHCN để phát triển cam quýt theo hướng hàng hóa”. Qua nghiên cứu, các đề tài đã áp dụng các giải pháp bao gồm: Xác định chính xác các nhóm nguyên nhân gây hiện tượng suy thoái vùng sản xuất cây ăn quả đặc sản, ứng dụng kỹ thuật vi ghép đỉnh sinh trưởng để phục tráng giống, tạo cây mẹ đầu dòng để lưu giữ nguồn gen, nghiên cứu thử nghiệm các giải pháp về dinh dưỡng đất và xây dựng mô hình áp dụng các giải pháp quản lý tổng hợp và tái chống nhiễm bệnh đồng thời tập huấn chuyển giao kỹ thuật đã góp phần bảo tồn, duy trì vùng sản xuất cây đặc sản cho địa phương. Đến nay, Viện Bảo vệ thực vật đã phục tráng thành công các giống cây đặc sản như: cam Trưng Vương, quýt Hà Trì, quýt Trà Lĩnh, quýt Hoa Thám, quýt Thạch An. Nguồn gen của các cây giống nói trên vẫn đang được lưu giữ trong nhà lưới tại Viện.
Các giống cam Trưng Vương, quýt Hà Trì sạch bệnh được trồng chu kỳ II trên vùng đất nhiễm bệnh trước đây sinh trưởng, phát triển tốt, chưa bị tái nhiễm bệnh sau 5 năm trồng mới. 36 tháng sau trồng mới (từ T1/2011 – T1/2014) cho hoa đạt 80%, tỷ lệ quả bói đạt trên 30%. Năm 2016, 100% diện tích mô hình cho ra hoa đậu quả ổn định. Đặc biệt trồng xen ổi trong vườn giúp xua đuổi rầy chổng cánh và thu nhập từ cây ổi giúp người dân tăng thêm thu nhập trên một đơn vị diện tích.
Tại Trà Lĩnh, ngoài phục tráng và làm sạch bệnh cho giống quýt Trà Lĩnh, Viện đã xây dựng mô hình trồng mới quy mô 1,5 ha (0,5 ha/ 01 mô hình); mô hình khôi phục vùng sản xuất quýt Trà Lĩnh kém hiệu quả, với diện tích 0,5 ha, hiệu quả kinh tế tăng 22% so với ban đầu, Viện đã cung ứng cây giống quýt Trà Lĩnh sạch bệnh cho 10ha; tập huấn kỹ thuật trồng, thâm canh quản lý dịch hại cho gần 200 lượt người dân. Kết quả này góp phần phát triển vùng chuyên canh trồng quýt trên quy mô lớn tại huyện Trà Lĩnh. Đặc biệt, năm 2016, Sở KH&CN đã hỗ trợ Trà Lĩnh xây dựng và được Cục Sở hữu trí tuệ ra Quyết định số 20939/QĐ-SHTT về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký Nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm Quýt Trà Lĩnh số 261148 cho Hội quýt Trà Lĩnh, xã Quang Hán (Trà Lĩnh) với 87 thành viên.
Thực hiện đề tài “Ứng dụng công nghệ để phục tráng và phát triển sản xuất cam quýt theo hướng sản xuất hàng hóa”, đã lựa chọn được 10 cây quýt ưu tú tại xã Hoa Thám, huyện Nguyên Bình và xã Trọng Con, huyện Thạch An làm vật liệu tạo cây mẹ đầu dòng. Xây dựng thành công mô hình trồng mới 02 giống trên cũng được thiết lập tại địa phương. Ngoài ra, Viện Bảo vệ thực vật tiếp tục cung ứng cây giống sạch bệnh cho phát triển 30ha giống cam Trưng Vương, quýt Hà Trì, quýt Trà Lĩnh. Đây là những cây trồng đáp ứng các tiêu chuẩn để làm cây vật liệu khởi đầu cho công tác bảo tồn nguồn gen và nhân giống, phát triển diện tích các loại cây trồng đặc sản.
Có thể nói ứng dụng KH&CN đã giúp bảo tồn nguồn gen cây đặc sản đồng thời khai thác có hiệu quả những tiềm năng tự nhiên của địa phương, góp phần quan trọng trong công tác xóa đói, giảm nghèo. Người nông dân được tiếp cận với những tiến bộ kỹ thuật trồng, thâm canh và quản lý tổng hợp sâu bệnh hại trên cây có múi nói riêng và cây ăn quả nói chung.
Trong thời gian tới, để nâng cao giá trị cạnh tranh, giúp cây ăn quả đặc sản của địa phương phát triển, vươn ra thị trường lớn, cần liên kết sản xuất với các doanh nghiệp, hiệp hội, tổ chức sản xuất theo chuỗi, theo tiêu chuẩn VietGAP nhằm đảm bảo được các vấn đề như: truy được nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm; sản phẩm đạt tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm; bảo vệ sức khỏe người sản xuất, tiêu dùng và bảo vệ môi trường. Từ đó, người sản xuất sẽ tiếp tục duy trì, nhân rộng mô hình, nâng cao chất lượng và giá trị của sản phẩm trên thị trường tiêu thụ, tạo điều kiện thuận lợi cho người sản xuất yên tâm đầu tư thâm canh tăng năng và phát triển kinh tế cho địa phương./.