Năm 2014 với những tiền đề tạo bước đột phá trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
22/04/2014
Lượt xem: 12
Năm 2014 được ghi nhận là năm có nhiều tiền đề quan trọng để tạo bước đột phá trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN), trên cơ sở phân tích các sự kiện và chính sách như sau:
1. Năm 2013, ngành KH&CN nước ta khép lại với một số kết quả đáng ghi nhận, tạo tiền đề phát triển cho năm 2014 như:
Việt Nam chế tạo thành công vệ tinh siêu nhỏ và vệ tinh quan sát Trái đất đầu tiên của Việt Nam bay vào quỹ đạo; Giải mã thành công hệ gene của 36 giống lúa bản địa Việt Nam; Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) làm chủ công nghệ cao góp phần hiện đại hóa quân đội; Kết quả nghiên cứu của nhóm nghiên cứu địa hóa môi trường trường Đại hộc Quốc gia Hà Nội đã được công bố trên tạp chí số 1 thế giới – Nature; Việt Nam khánh thành Bảo tàng Đông Nam Á đầu tiên trong khu vực; Ký hiệp định và bản ghi nhớ về năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình và Việt Nam và Vương quốc Anh; ký hợp tác sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình; Hoàn tất việc đưa 16 kg uranium rời khỏi Việt Nam an toàn; Chương trình Đối tác Đổi mới Sáng tạo Việt Nam-Phần Lan chương trình IPP tổng kết giai đoạn một và Dự án FIRST - Đầu tư 110 triệu USD cho đổi mới sáng tạo trong KH và CN; “Gặp gỡ Việt Nam” lần thứ 9 quy tụ được hơn 200 nhà khoa học hàng đầu đến từ 30 quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó có những nhà khoa học từng đạt giải Nobel Vật lý;…
2. Luật KH&CN sửa đổi năm 2013 có hiệu lực từ năm 2014:
Đổi mới cơ chế chính sách nhằm tạo bước đột phá cho phát triển KH&CN đã được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong những năm qua, tiêu biểu đó là Luật KH&CN sửa đổi năm 2013 chính thức được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ năm 2014.
Luật KH&CN sửa đổi năm 2013 so với Luật KHCN năm 2000 (với 8 Chương, 59 điều) có nhiều thay đổi mang tính đột phá, Luật KHCN sửa đổi năm 2013 (gồm 81 điều, được chia thành 11 chương), bỏ 17/59 điều, sửa đổi 42/59 điều, đồng thời bổ sung 39 điều mới), trong đó có 05 vấn đề quan trọng lần đầu tiên được luật hóa được nhiều người kỳ vọng sẽ tạo bước phát triển mới cho KHCN của Việt Nam. Cụ thể như sau:
Phương thức đầu tư cho KH&CN
Ngoài đầu tư của nhà nước tối thiểu bằng 2% tổng chi ngân sách (Điều 49), bắt buộc các doanh nghiệp phải dành một phần lợi nhuận trước thuế của họ đề đầu tư lại cho nghiên cứu R&D thông qua việc thành lập Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp (Điều 55, 56). Nên biết rằng ở các nước phát triển, phần lớn tiền đầu tư cho nghiên cứu KHCN đến từ các doanh nghiệp, nhà nước chỉ chiếm khoảng 25-30% để chi cho các nghiên cứu cơ bản và các đề án nghiên cứu ứng dụng có tầm quan trọng chiến lược. Việc các doanh nghiệp dành kinh phí cho các nghiên cứu R&D bằng hình thức tự tổ chức triển khai nghiên cứu và/hoặc đặt hàng cho Phòng thí nghiệm của các Viện/trường đại học triển khai nghiên cứu không chỉ được quy định thành luật mà còn là nhu cầu tự thân của doanh nghiệp trong việc đổi mới sáng tạo để cạnh tranh ở quy mô quốc gia và quốc tế. Còn ở ta, do năng lực các doanh nghiệp còn nhỏ, nhu cầu đổi mới sáng tạo để tồn tại và phát triển chưa cao nên không mấy doanh nghiệp tự ý thức được việc này. Nay dù muốn hay không doanh nghiệp cũng phải trích một phần lợi nhuận để tái đầu tư cho các nghiên cứu R&D nhằm đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm (Điều 55, 56, 63).
Quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước cho nghiên cứu KHCN
Được đổi mới về căn bản thông qua Quỹ Phát triển KH và CN quốc gia và các Quỹ Phát triển KH và CN của các Bộ, ngành, cũng như ở các tỉnh (Điều 59, 60, 61). Mô hình Quỹ Phát triển KH và CN, thực chất là mô hình quản lý và sử dụng ngân sách tiên tiến, được hầu hết các nước áp dụng. Mô hình Quỹ cho phép quản lý và sử dụng kinh phí theo phương thức khoán đến sản phẩm cuối cùng mà bỏ qua lối quản lý hành chính, thanh quyết toán theo năm kế hoạch, vừa phức tạp, nhiêu khê, chiếm quá nhiều thời gian công sức của nhà khoa học và cả nhà quản lý. Phương thức quản lý Quỹ và khoán chi đến sản phẩm cuối cùng (Điều 52), thậm chí có thể sử dụng ngân sách để mua sản phẩm KHCN của nhà khoa học. Những quy định mang tính đột phá này không chỉ nâng cao trách nhiệm của nhà khoa học chân chính mà còn khắc phục được nhiều kẽ hở cho những ai đội lốt nghiên cứu khoa học để trục lợi.
Tổ chức KHCN
Mọi tổ chức cá nhân đều có quyền đề xuất ý tưởng nghiên cứu dưới dạng các đề tài, dự án, trên cơ sở đó Tổ chức KHCN sẽ tập hợp, sàng lọc và đặt hàng cho nhà khoa học (Điều 26). Mô hình đặt hàng đối với nhà khoa học, được coi là phương thức tối ưu nhằm gắn mục tiêu của nghiên cứu KHCN với những vấn đề thực tiễn, tránh được tình trạng kết quả nghiên cứu sau khi nghiệm thu nằm lưu trong tủ mà không đến với thực tiễn. Khi được đặt hàng, dương nhiên, với các điều kiện ràng buộc, nhà khoa học phải có trách nhiệm hoàn thành mục tiêu, sản phẩm nghiên cứu và bàn giao kết quả cho Tổ chức KHCN đã đặt hàng.
Vị trí, chức năng tổng tư lệnh ngành KHCN
Luật KHCN sửa đổi lần đầu tiên quy định Bộ KH&CN với các quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng trong việc toàn quyền hoạch định từ các kế hoạch 5 năm, đề xuất nguồn kinh phí thực thi nhiệm vụ KHCN, đến việc quản lý, giám sát sử dụng kinh phí có hiệu quả trên phạm vi toàn quốc. Các Bộ ngành khác chỉ đóng vai trò tham gia, phối thuộc những vấn đề thuộc phạm vi Bộ, ngành mình.
Chính sách sử dụng và đãi ngộ cho cán bộ KH&CN
Là một trong những điểm khá đột phá. Luật sửa đổi đã cụ thể hóa hàng loạt chính sách đãi ngộ về lương, phụ cấp trách nhiệm, đi dự các Hội nghị quốc tế, v.v. đối với nhà khoa học đầu ngành, trình độ cao, nhà khoa học đang chủ trì các đề tài, đề án quốc gia (Điều 23). Đặc biệt, quy định tạo điều kiện cho nhà khoa học đẳng cấp được đầu tư cơ sở vật chất và nguồn nhân lực để tổ chức nghiên cứu, thực hiện ý tưởng đặt ra. Luật sửa đổi cũng khuyến khích nhà khoa học trẻ có tài được thăng tiến trong việc đề bạt, bỏ qua rào cản lâu nay là “sống lâu lên lão làng”, nay nhà khoa học trẻ, có trình độ và thành tích xứng đáng có thể được bổ nhiệm lên vị trí cao mà không cần đủ thâm niên như trước đây. Nhà khoa học được ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân từ các khoản thu nhập từ hoạt động KHCN. Luật cũng cụ thể hóa nhiều chế độ đãi ngộ đối với nhà khoa học là Việt kiều, chuyên gia quốc tế tham gia trong các chương trình đề án nghiên cứu với Việt Nam (Điều 24).
Bên cạnh đó Luật KH&CN sửa đổi năm 2013 cũng đã xác định được Ngày KH&CN Việt Nam. Điều 7 Luật KH&CN 2013 quy định, ngày 18/5 hàng năm là Ngày KH&CN Việt Nam. Đây là ngày dành cho giới làm khoa học, là ngày các nhà khoa học trình diễn các kết của nghiên cứu của mình với xã hội, qua đó đem đến tình yêu và đam mê đối với khoa học cho các tầng lớp nhân dân đặc biệt là giới trẻ.
Luật KHCN sửa đổi với một số quy định có tính đột phá sẽ góp phần tạo hành lang pháp lý trong quản lý KHCN theo thông lệ quốc tế, góp phần đưa nghiên cứu khoa học vào thực chất hơn, rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu và thực tiễn đất nước.
3. Một số thông tư, nghị định mới được ban hành về lĩnh vực KH&CN đã định hướng cho sự phát triển KH&CN trong thời gian tới:
Nghị định số 08/2014/NĐ-CP, ngày 27/01/2014 của Chính phủ : Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khoa học và công nghệ.
Ngày 18/02/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 11/2014/NĐ-CP về hoạt động thông tin KH&CN (Nghị định thay thế Nghị định 159/2004/NĐ-CP ngày 31/8/2004). Nghị định gồm 06 chương 38 điều, quy định một số nội dung chủ yếu về hoạt động thông tin KH&CN, đồng thời hướng dẫn một số nội dung quy định tại Khoản 3 Điều 27, Điều 39, Điều 40, Khoản 8 Điều 50, Khoản 2 Điều 66, Điều 68 và một số nội dung khác phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước về thông tin KH&CN, đã được quy định trong Luật KH&CN năm 2013.
Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg, ngày 05/03/2014 của Thủ tướng Chính phủ : Về việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước.