Thông tin mới nhất
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1
Đăng nhập
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực nông-lâm nghiệp phục vụ tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới
Lượt xem: 550
Thực hiện Nghị quyết số 26 NQ-TW của Ban chấp hành Trung ương về nông dân, nông nghiệp, nông thôn và quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai tại tỉnh Cao Bằng hơn 6 năm đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Trong đó, có những đóng góp tích cực của việc nghiên cứu chuyển giao khoa học công nghệ (KHCN) thuộc lĩnh vực nông lâm nghiệp phục vụ tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân, lĩnh vực khoa học công nghệ đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhiệm vụ khoa học công nghệ thuộc lĩnh vực nông lâm nghiệp được tăng cường đầu tư về kinh phí, các kết quả nghiên cứu được ứng dụng trong sản xuất góp phần nâng cao năng suất chất lượng cây trồng vật nuôi, tạo chuỗi giá trị sản phẩm hàng hoá phát huy thế mạnh của địa phương, nhiều sản phẩm hàng hoá đặc trưng của tỉnh đã mang dấu ấn của khoa học công nghệ như: Thuốc lá Cao Bằng, mía đường, sắn, chè chất lượng cao, cây ăn quả đặc sản, lúa nếp đặc sản... và đã xây dựng được thương hiệu cho một số sản phẩm trong thực hiện bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, tiêu chí thu nhập là tiêu chí khó thực hiện nhất. Muốn nâng cao thu nhập cho người dân đòi hỏi phải ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất trên cơ sở những lợi thế của địa phương phải có sự gắn kết chặt chẽ hiệu quả giữa 4 nhà (nhà khoa học với nhà nước, nhà doanh nghiệp và nhà nông).
Trong những năm qua, tỉnh ta đã chủ động triển khai nhiệm vụ khoa học công nghệ gắn với các mô hình sản xuất nâng cao chuỗi giá trị, liên kết 4 nhà, ứng dụng khoa học kỹ thuật sản xuất hàng hoá đem lại hiệu quả kinh tế cao - Điển hình như: Từ kết quả nghiên cứu của đề tài “Xây dựng mô hình trồng thâm canh và chế biến chè xanh chất lượng cao Nguyên Bình” do viện KHKT nông lâm nghiệp miền núi phía bắc chủ trì từ 2006 - 2008...Hiện nay diện tích chè chất lượng cao của tỉnh Cao Bằng đã mở rộng gần 100ha tại Nguyên Bình và huyện Thạch An. Nhiều hộ nông dân đã nâng cao thu nhập cải thiện đời sống từ sản xuất chè và năng lực của doanh nghiệp đầu tư trồng chè đã được nâng lên.
Đối với cây ăn quả - Nhiều đề tài nghiên cứu, dự án đã phát huy thế mạnh sản xuất cây ăn quả của tỉnh miền núi Cao Bằng. Đề tài “Phục tráng giống cam quýt vùng Hoà An”, đề tài “Ứng dụng ghép vi đỉnh sinh trưởng để phục tráng bảo tồn và phát triển giống quýt đặc sản Trà Lĩnh tỉnh Cao Bằng” do viện Bảo vệ thực vật phối hợp với địa phương triển khai được đánh giá xuất sắc, nhiều hộ gia đình đã có thu nhập từ mô hình ứng dụng vài chục triệu đến 1 tỷ đồng - Diện tích quýt hàng hoá của huyện Trà Lĩnh đã mở rộng trên 100ha.
Các đề tài nghiên cứu về cây lê, mận của viện nghiên cứu rau quả, dự án “Ứng dụng KHCN trồng một số cây ăn quả năng suất, chất lượng cao tại xã Trường Hà, huyện Hà Quảng” v.v... Đã nghiên cứu và đưa ra giải pháp kỹ thuật vào sản xuất, hứa hẹn mở rộng diện tích cây ăn quả đặc sản: Cam, quýt, lê, mận, hạt dẻ... của tỉnh Cao Bằng.
- Đối với cây lương thực, đã có một số đề tài nghiên cứu phục tráng giống, ứng dụng KHCN trong sản xuất thành công góp phần đảm bảo an ninh lương thực, phát triển diện tích lúa đặc sản Cao Bằng (theo đề án tái cơ cấu đến năm 2020 diện tích lúa đặc sản là 1000ha). Xuất phát từ thành công của đề tài “Phục tráng giống lúa nếp hương Bảo Lạc, nếp Pì Pất Cao Bằng” của trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN... Năm 2015 - 2016 Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật xây dựng thành công các mô hình liên kết 4 nhà trong sản xuất nếp hương Bảo Lạc (10ha), nếp Pì Pất tại Vĩng Quang và Hưng Đạo (20ha), nếp ong tại xã Ngọc Khê, Ngọc Côn, Phong Châu huyện Trùng Khánh (40ha)... năng suất lúa cao đạt 40 - 45 tạ/ha, chất lượng tốt, đã xây dựng được nhãn hiệu hàng hoá, công ty công nghệ sinh học Ngân Hà thu mua toàn bộ sản phẩm... Liên hiệp Hội tiếp tục mở rộng mô hình sản xuất lúa thuần chất lượng cao (phát huy kết quả đề tài đã nghiên cứu năm 2012 - 2013). Hiện nay riêng vùng lúa nếp đặc sản Cao Bằng có trên 300ha.
Tương tự như vậy, nhiều dự án, đề tài đã nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật phát triển cây trồng, vật nuôi có giá trị, bước đầu góp phần tạo ra các vùng sản phẩm hàng hoá thực hiện tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới như: Sản phẩm miến dong, hồi, quế ở huyện Nguyên Bình, sản phẩm lợn địa phương, bí thơm, thạch đen của huyện Thạch An, gừng trâu, lợn đen ở huyện Hà Quảng, lạc ở Hoà An, Hà Quảng, Thông Nông, Quảng Uyên, thuốc lá Hoà An, Hà Quảng, trồng cỏ phát triển chăn nuôi trâu bò ở huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm, Nguyên Bình. Đã có một số đề tài nghiên cứu, đầu tư phát triển cây dược liệu của tỉnh Cao Bằng như: Ba kích, thạch hộc thiết bì, lan kim tuyến... nhằm khai thác lợi thế địa phương, phát triển khôi phục cây dược liệu nâng cao thu nhập, chăm sóc sức khoẻ cho người dân và bảo vệ nguồn gen dược liệu quý.
Có thể nói hoạt động KH-CN trong ngành nông nghiệp phục vụ mục tiêu tái sản xuất, xây dựng nông thôn mới đã được tỉnh ta quan tâm, có bước phát triển đáng kể góp phần nâng cao thu nhập cho nhiều hộ thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội tỉnh Cao Bằng.
Trong giai đoạn 2010 - 2015, thành tựu về sản xuất nông nghiệp ở tỉnh ta có bước phát triển khá nhờ đưa các tiến bộ khoa học công nghệ về giống, quy trình kỹ thuật sản xuất ngày càng ở mức độ cao hơn trước đây. Bên cạnh đó công tác nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực nông lâm nghiệp cũng được chú trọng, đã có khoảng 70% số đề tài, dự án hàng năm triển khai thuộc lĩnh vực nông lâm nghiệp.
Theo điều tra của nhóm thực hiện đề tài trong 10 năm (2005 - 2015) tỉnh Cao Bằng đã triển khai thực hiện 44 dự án đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực nông nghiệp đã có 25/44 dự án, đề tài (chiếm 56,8%) được áp dụng và có hiệu quả, trong đó có những đề tài được ứng dụng rộng rãi và phát huy hiệu quả xuất sắc. Tuy nhiên vẫn còn 19/44 đề tài dự án (43,2%) chưa hiệu quả, không ứng dụng và phát huy trong sản xuất. Những nguyên nhân dẫn đến các dự án, đề tài KHCN thuộc lĩnh vực nông nghiệp chưa phát huy được theo chúng tôi là do những nguyên nhân chính sau đây:
1) Việc xác định nhiệm vụ KH-CN hàng năm rất quan trọng - Quyết định hiệu quả và sự phát huy đề tài trong sản xuất - Song tại tỉnh ta chưa có nhiều đề tài do doanh nghiệp, các đơn vị đặt hàng, việc đề xuất nhiệm vụ KHCN và triển khai chưa bám sát chặt chẽ, yêu cầu thực tiễn sản xuất, công tác dự báo, nắm bắt nhu cầu thị trường còn hạn chế.
2) Công tác tuyên truyền kết quả nghiên cứu còn rất hạn chế - Theo điều tra chỉ có 33% số người hỏi có quan tâm, 58% là ít hoặc không quan tâm đến đề tài, dự án. Do đó sau khi đề tài kết thúc các sản phẩm của đề tài chưa được phát huy.
3) Chính quyền địa phương, các cấp chưa thấy được sự cần thiết áp dụng các kết quả nghiên cứu vào địa phương mình, ít được quan tâm đưa vào Nghị quyết cấp uỷ, HĐND và kế hoạch sản xuất hàng năm của các cấp chính quyền.
4) Nhận thức của người dân về việc tham gia và áp dụng kết quả đề tài dự án còn hạn chế, vẫn còn tư tưởng ỷ lại Nhà nước đầu tư, chưa mạnh dạn tự đầu tư áp dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất (kể cả nhiều mô hình khuyến nông cũng tương tự như vậy).
5) Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý trong lĩnh vực khoa học công nghệ về nông nghiệp và phát triển nông thôn chưa chặt chẽ và đồng bộ. Liên kết 4 nhà trong sản xuất còn nhiều khó khăn, cơ chế chính sách chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia.
Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp Cao Bằng giai đoạn 2016 - 2020 đã nêu những hạn chế, yếu kém của tỉnh ta đó là “công tác nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao KHKT trong sản xuất nông nghiệp chưa gắn với thực tiễn, nhiều công trình, giải pháp KHKT sau khi hoàn thành không được áp dụng, nhân rộng trong thực tế”. Để khắc phục những hạn chế trong nghiên cứu và ứng dụng KHKT, phát huy vai trò KHCN phục vụ tái cơ cấu nông nghiệp, góp phần thực hiện mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới - Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật xin tham vấn với tỉnh một số giải pháp như sau:
Một là: Giải pháp về cơ chế chính sách:
Cần áp dụng rộng rãi cơ chế đặt hàng, khoán sản phẩm nghiên cứu, kinh phí thực hiện đề tài cho các tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện, tăng tỷ lệ chi ngân sách dành cho hoạt động khoa học nói chung, nghiên cứu triển khai nói riêng, đồng thời huy động xã hội hóa các nguồn vốn khác đầu tư cho KH&CN nhất là các đề tài dự án nông lâm nghiệp ở mức cao hơn.
Tiếp tục triển khai kết quả đề tài dưới dạng sản xuất thử nghiệm ở mức độ rộng hơn, kiểm chứng trong vài vụ tiếp theo.
Có chính sách và cơ chế cụ thể trong liên kết 4 nhà, hỗ trợ địa phương hoặc doanh nghiệp xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm là thế mạnh của địa phương, doanh nghiệp.
Đề cao và thực hiện tốt tính phản biện trong các đề tài nghiên cứu, tăng cường công tác tư vấn, phản biện của liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật.
Hai là: Giải pháp về tổ chức quản lý:
- Tăng cương nâng cao chất lượng của Hội đồng tư vấn KH&CN gồm: Hội đồng tư vấn xác định nhiệm vụ và Hội đồng đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên cứu.
- Tổ chức đánh giá hiệu quả các đề tài dự án thường xuyên để kịp thời rút kinh nghiệm nhân ra diện rộng.
Đồng thời lựa chọn các đơn vị, doanh nghiệp có đủ năng lực tham gia các đề tài, dự án ngay từ đầu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chủ động về tài chính, bao tiêu sản phẩm... Phát huy hiệu quả của đề tài, dự án sau khi nghiệm thu đề tài, dự án cần bàn giao cho cơ quan có trách nhiệm quản lý dự án, theo dõi, đánh giá và nhân rộng kết quả nghiên cứu đã thành công.
Đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, nghiên cứu áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đề xuất các đề tài, dự án gắn với nhiệm vụ mục tiêu đề án tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp tỉnh Cao Bằng.
Ba là: Giải pháp về tài chính:
- Cần đơn giản hoá các thủ tục rải ngân, thủ tục thanh quyết toán, tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà khoa học, chủ nhiệm đề tài chuyên tâm nghiên cứu về chuyên môn, tạo ra sản phẩm khoa học tốt nhất bằng cách khoán kinh phí thực hiện đề tài, dự án.
- Tiếp tục hỗ trợ một phần tài chính cho các đề tài, dự án đạt thành tích xuất sắc để nhân rộng mô hình, tuyên truyền quảng bá tạo thương hiệu, tạo sức lan toả lớn về các kết quả đề tài, dự án cộng đồng.
- Đầu tư nâng cao cho các trung tâm sản xuất giống (cây trồng, vật nuôi, thuỷ sản) đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, triển khai áp dụng khoa học công nghệ (về máy móc công nghệ, đào tạo chuyên gia) đáp ứng yêu cầu ứng dụng KHCN vào sản xuất.
- Kêu gọi các nhà doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cây trồng, vật nuôi thế mạnh của tỉnh.
Bốn là: Giải pháp về nguồn nhân lực:
- Cần lựa chọn đơn vị, cá nhân có chuyên môn sâu, có uy tín trách nhiệm làm cơ quan chủ trì, chủ nhiệm đề tài, dự án. Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu của tỉnh Cao Bằng.
- Xây dựng đội ngũ chuyên gia có uy tín của tỉnh trên các lĩnh vực để làm công tác tư vấn, tham mưu và tổ chức thực hiện các đề tài, dự án về KHCN đối với ngành nông nghiệp nói chung (lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản... nói riêng).
- Liên kết với các trường đại học, các viện nghiên cứu... đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu bổ sung những tri thức mới cho đội ngũ trí thức trẻ. Kết hợp chặt chẽ giữa các chuyên gia nhiều kinh nghiệm với các trí thức trẻ và nông dân có kinh nghiệm sản xuất hăng hái áp dụng khoa học kỹ thuật để triển khai thực hiện đề tài, dự án.
- Bố trí xen kẽ nguồn nhân lực các đơn vị Trung ương và địa phương trong thực hiện đề tài, dự án để nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ khoa học địa phương.
Để phát huy kết quả thực hiện đề tài, dự án góp phần thực hiện đề án tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp tỉnh Cao Bằng. Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh đề xuất kiến nghị như sau:
1. Đối với cấp Bộ, cấp tỉnh:
- Đối với cấp Bộ: Chỉ đạo xuyên suốt đồng bộ từ các bộ ngành, tỉnh về triển khai đề tài, dự án từng lĩnh vực theo mục tiêu phát triển vùng miền, địa phương.
- Bộ tài chính và Bộ KH&CN cần nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách tài chính theo hướng tăng mức đầu tư ngân sách Trung ương đối với dự án nông thôn miền núi, chủ động sử dụng kinh phí theo hình thức khoán gọn đề tài.
- Đối với cấp tỉnh: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý khoa học, nâng cao chất lượng và hiệu quả hội đồng tư vấn khoa học - Thực hiện nhiệm vụ gắn với đề án tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
2. Đối với cấp Sở, ngành/ huyện thành phố:
- Các cấp, các ngành cần nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về vai trò của KH&CN trong phát triển kinh tế xã hội. Nhất là trong thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
- Chủ động đề xuất nhiệm vụ KH&CN hàng năm, phù hợp với điều kiện và thế mạnh của địa phương - Góp phần tạo ra các sản phẩm đặc thù có lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
Để phát huy được vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của đất nước, địa phương và KHCN thực sự trở thành động lực quan trọng - Chúng ta tin tưởng các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước sẽ tạo điều kiện để các nhà khoa học, các thành phần kinh tế nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương, thực hiện thắng lợi mục tiêu tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới của tỉnh Cao Bằng .

KS. Hoàng Thị Bình
Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Cao Bằng
Tin khác
1 2 3 4 5  ... 














image advertisement