Đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, giai đoạn 2021-2030
Khoa học và công nghệ (KH&CN) những năm qua đã có những bước phát triển đáng kể, với chủ trương lấy doanh nghiệp làm trung tâm để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, hoạt động KH&CN đã từng bước gắn với Doanh nghiệp, Hợp tác xã và với từng sản phẩm cụ thể. Nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ được ban hành và triển khai đi vào thực tiễn từng bước mang lại hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của người dân. Song xét về tổng thể thì hoạt động KH&CN vẫn còn nhiều yếu kém, các cơ chế, chính sách hỗ trợ chưa thực sự hấp dẫn, chưa đáp ứng được kỳ vọng, cần có những cơ chế, chính sách hỗ trợ mới thích hợp và các giải pháp đồng bộ, hiệu quả, để thúc đẩy phát triển KHCN&ĐMST trong thời gian tới.
Thạch đen Thạch An được cấp Giấy chứng nhận mã số - mã vạch áp dụng cho sản phẩm.
Xác định rõ KH&CN là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt, quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, trong những năm qua, triển khai các chủ trương, chính sách, định hướng của Trung ương về KH&CN, tỉnh Cao Bằng đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa các cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh hoạt động KH&CN, như: Quy hoạch phát triển KH&CN tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2010-2020; Chương trình hành động của Tỉnh ủy Cao Bằng về thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01 tháng 11 năm 2012 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế;… Đặc biệt, với tinh thần lấy doanh nghiệp làm trung tâm đổi mới và ứng dụng công nghệ, Hội đồng nhân dân tỉnh Cao Bằng đã ban hành Nghị quyết riêng của tỉnh về cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm và xác lập quyền sở hữu công nghiệp cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (Nghị quyết số 09/2009/NQ-HĐND tỉnh ngày 17 tháng 7 năm 2009 và được sửa đổi, bổ sung, thay thế bằng Nghị quyết số 30/2014/NQ-HĐND ngày 11 tháng 12 năm 2014, Nghị quyết số 12/2019/NQ-HĐND ngày 12 tháng 7 năm 2019).
Các chủ trương, chính sách của tỉnh đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng và xác lập quyền sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm của mình. Kể từ khi cơ chế, chính sách hỗ trợ được ban hành và đi vào thực tiễn, đến nay tỉnh Cao Bằng đã triển khai hỗ trợ đối với khoảng 20 cơ sở, tổ chức, doanh nghiệp với tổng kinh phí hỗ trợ là 1.439 triệu đồng, trong đó: hỗ trợ hoạt động đổi mới công nghệ 04 doanh nghiệp với 900 triệu đồng; hỗ trợ về hoạt động nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm đối với 06 doanh nghiệp với 469 triệu đồng; hỗ trợ hoạt động xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với 10 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và cá nhân với tổng kinh phí 79 triệu đồng.
Cùng với đó, nhận thức chung của doanh nghiệp và người dân về vai trò của KH&CN đối với sản xuất và đời sống trên địa bàn tỉnh đã có bước chuyển biến đáng kể. Một số doanh nghiệp đã ưu tiên đầu tư, tiếp thu và ứng dụng các thành tựu KH&CN hiện đại vào sản xuất, đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ, các giải pháp quản lý tiên tiến… tạo bước tiến mới trong nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Đến nay đã có 39 tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh áp dụng hệ thống quản lý chất lượng TCNV ISO 9001; có 21 đơn vị có công bố áp dụng tiêu chuẩn cơ sở; 84 tổ chức, đơn vị doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận mã số - mã vạch áp dụng cho sản phẩm, hàng hoá do cơ sở sản xuất, phân phối, kinh doanh.Nhiều cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh quan tâm, thực hiện đăng ký và được cấp bằng độc quyền/giấy chứng nhận về sở hữu công nghiệp với 181 đơn đăng ký (trong đó có: 02 đơn chỉ dẫn địa lý; 10 đơn sáng chế; 19 đơn kiểu dáng công nghiệp; 150 đơn nhãn hiệu, bao gồm cả nhãn hiệu thông thường, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận); và hiện đã có 112 văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được Cục Sở hữu trí tuệ cấp (trong đó có: 01 Bằng độc quyền sáng chế; 14 Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp; 02 Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý và 95 Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu (gồm 07 nhãn hiệu tập thể, 01 nhãn hiệu chứng nhận, 87 nhãn hiệu thông thường)). Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh hiện đã có 01 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận Doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Quá trình triển khai thực hiện cơ chế, chính sách hỗ trợ trong thời gian qua cho thấy việc hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và xác lập quyền sở hữu công nghiệp cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đã có những tác động tích cực, góp phần khuyến khích, động viên, thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng suất và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp; chính sách đã thể hiện sự quan tâm, đồng hành của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, xét về tổng thể thì mức độ quan tâm, nắm bắt thông tin và tiếp cận của các tổ chức, doanh nghiệp đối với cơ chế, chính sách hỗ trợ về hoạt động khoa học và công nghệ còn hạn chế. Doanh nghiệp chủ yếu là quy mô nhỏ và siêu nhỏ, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý chỉ tập trung hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thi công xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, thương mại…, số lượng các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm vẫn còn ít, trình độ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐMST) còn thấp, cácdoanh nghiệpchủ yếu sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, tụt hậu so với mức trung bình của thế giới; toàn tỉnh hiện nay mới chỉ có 01 doanh nghiệp KH&CN, năng lực nghiên cứu, hấp thụ, tiếp nhận, ứng dụng và chuyển giao công nghệ còn hạn chế; khả năng tài chính của các doanh nghiệp còn yếu, vốn tự có thấp, hiệu quả đầu tư chưa cao; nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu, chất lượng; tăng trưởng của doanh nghiệp thấp, dựa chủ yếu vào tăng quy mô vốn đầu tư, lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên và các lợi ích ngắn hạn. Hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo còn hạn chế, chưa hình thành được hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại địa phương. Số lượng các văn bằng bảo hộ sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng còn rất ít hoặc nếu có cũng chưa phát huy hiệu quả.
Giải pháp để thúc đẩyphát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn tới
Trên quan điểm, định hướng về phát triển KHCN&ĐMST của Đảng và Nhà nước trong thời gian tới, tăng trưởng kinh tế sẽ phải dựa ngày càng nhiều vào tăng năng suất lao động, tăng giá trị, chất lượng sản phẩm. Trong đó đã xác định KHCN&ĐMST là một nội dung đột phá chiến lược, là động lực chính để tạo ra sự bứt phá về năng suất và tăng trưởng bền vững.Đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ĐMSTsẽ là cầu nối đưa KH&CN vào phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò trung tâm. Để làm được điều đó, tỉnh Cao Bằng cần ưu tiên triển khai kịp thời các giải phápvề thủ tục hành chính và cơ chế, chính sách phù hợp nhằm hỗ trợ thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ và nâng cao trình độ công nghệ, phát triển công nghệ mới bằng các cơ chế, chính sách phù hợp, làm đòn bẩy để thúc đẩy xã hội hoá các nguồn đầu tư cho KHCN&ĐMST, đặc biệt từ phía các doanh nghiệp.
Theo đó, trong thời gian tới, cùng với việc triển khai hiệu quả, đồng bộ các cơ chế, chính sách về KHCN&ĐMST do Trung ương ban hành như: Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2030, Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025 (Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ), Chiến lược Sở hữu trí tuệ quốc gia đến năm 2030 (Quyết định số 1068/QĐ-TTg ngày 22/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ), Chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hoá giai đoạn 2021-2030 (Quyết định số 1322/QĐ-TTg ngày 31/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ), Chương trình Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025, Chương trình Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN (Quyết định số 592/QĐ-TTg ngày 22/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ)… trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển KH&CN đã ban hành trong giai đoạn 2011 - 2020 và bổ sung những nội dung mới, phù hợp trong bối cảnh nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng về nền kinh tế thế giới, tỉnh Cao Bằng cần tiếp tục ban hành cơ chế chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động KHCN&ĐMST để đổi mới, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như xây dựng và phát triển thương hiệu các sản phẩm đặc sản của địa phương làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển hoạt động KHCN&ĐMST trên địa bàn tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2021 – 2030 dự kiến sẽ trình HĐND tỉnh ban hành cuối năm 2021, nội dung chủ yếu tập trung vào một số chính sách và cơ chế tài chính hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước nhằm khuyến khích, thúc đẩy phát triển hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, tập trung với các hoạt động gồm: Hoạt động nghiên cứu và phát triển, đầu tư chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ; nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ; hoạt động xác lập và phát triển tài sản trí tuệ; thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ; ươm tạo, hình thành, thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật./.
Tác giả bài viết: Ths. Bế Đăng Khoa - Ủy viên BCH Tỉnh ủy, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ.