Tổ chức triển khai Chương trình định hướng và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, hợp tác xã
27/05/2016
Lượt xem: 8
Ngày 24/5 vừa qua, UBND tỉnh Cao Bằng đã có công văn số 1119/UBND-TH yêu cầu Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành có liên quan (trong đó có Sở Khoa học và công nghệ) tham mưu triển khai thực hiện Chương trình định hướng và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp (DN), hợp tác xã (HTX) giai đoạn 2016-2020 của Tỉnh ủy Cao Bằng.
Với mục tiêu hỗ trợ các DN, HTX đến năm 2020 phát triển bền vững với cơ cấu hợp lý, gắn kết chặt chẽ với yêu cầu và định hướng phát triển KT-XH chung của toàn tỉnh, Tỉnh ủy Cao Bằng đã Ban hành Chương trình 07-Ctr/TU ngày 29/4/2016 định hướng và hỗ trợ phát triển DN, HTX giai đoạn 2016-2020.
Chương trình được xây dựng dựa trên việc đánh giá khách quan về thực trạng phát triển DN, HTX trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong thời gian qua. Trong đó:
Về thực trạng phát triển DN: Đến hết năm 2015, toàn tỉnh có 1.103 DN với tổng vốn đăng ký là 10.677 tỷ đồng; trong đó giai đoạn 2011-2015 thành lập mới 452 DN với tổng số vốn đăng ký là 3.380 tỷ đồng (bính quân thành lập mới 09 DN/năm).
Cơ cấu DN: Phân theo loại hình DN, Cao Bằng có 323 DN tư nhân, 616 công ty TNHH, 164 công ty cổ phần; Phân theo loại hình hoạt động kinh doanh: số DN xây dựng và tư vấn xây dựng chiếm 54,5%; thương mại-dịch vụ chiếm 38%; khai thác, chế biến khoáng sản 5,5%; nông lâm nghiệp 1,0%; các lĩnh vực khác chiếm 1,0%.
Quy mô: DN Cao Bằng chủ yếu hoạt động với quy mô vừa và nhỏ với số vốn bình quân đăng ký đạt 9,6 tỷ đồng/DN. Trong đó, số DN có vốn đăng ký dưới 5 tỷ đồng chiếm 54,7%; từ 5 tỷ đến 50 tỷ chiếm 39%; từ 50 tỷ trở lên chiếm 6,3%. Tỷ lệ lao động trung bình làm việc trong các DN là 55 lao động/DN; đối với các doanh nghiệp tư nhân, lao động chủ yếu làm việc theo hợp đồng thời vụ. Toàn tỉnh có 22 DN có trên 100 lao động.
Trong giai đoạn 2011-2015, các DN đã đóng góp vào ngân sách Nhà nước hơn 1.400 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho hơn 21.000 lao động với thu nhập bình quân đạt 3,5-4,0 triệu đồng/ người/ tháng.
Thực tế cho thấy, các DN phát triển còn mang tính tự phát, thiếu bền vững, công nghệ sản xuất chậm cải tiến, đổi mới, năng suất và hiệu quả kinh tế không cao. Trong những năm gần đây có khoảng 15% số DN Cao Bằng hoạt động kinh doanh không có lãi hoặc thua lỗ, trong đó có 132 DN ngừng hoạt động.
Về phát triển HTX: Trong 5 năm qua, toàn tỉnh đã thành lập mới được 112 HTX với tổng số vốn đăng ký là113 tỷ đồng (trung bình mỗi năm thành lập mới được 22 HTX). Các HTX chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực: sản xuất vật liệu xây dựng 58%; công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp 22%; nông lâm nghiệp 10%; thương mại-dịch vụ:4%; dịch vụ vệ sinh môi trường 3%; giao thông vận tải 3%.
Đến hết năm 2015, Cao Bằng có 385 HTX đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký hoạt động là 400,89 tỷ đồng; vốn đăng ký bình quân đạt mức 1,05 tỷ đồng/HTX; trung bình một HTX có khoảng 10 thành viên tham gia. Trên 80% số HTX hoạt động kinh doanh có lãi, đóng góp cho ngân sách địa phương hàng năm trên 17,2 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho khoảng 3.810 lao động. Thu nhập bình quân của xã viên đạt 2,7 triêu đồng/ người/tháng.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc phát triển HTX còn một số tồn tại và khó khăn như: các HTX phát triển chủ yếu dựa vào nguồn vốn đầu tư công từ ngân sách Nhà nước, nhiều HTX còn sử dụng các công nghệ, máy móc lạc hậu, trình độ quản lý và tay nghề người lao động còn thấp, sản phẩm đưa ra không đáp ứng được nhu cầu thị trường và hoạt động kém hiệu quả. Trong 5 năm qua, toàn tỉnh có 56 HTX giải thể, ngừng hoạt động.
Để thực hiện có hiệu quả công tác hỗ trợ phát triển DN, HTX giai đoạn 2016-2020, Tỉnh ủy Cao Bằng đã đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
1. Tập trung phát triển DN, HTX nhỏ và vừa. Xây dựng, tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách cụ thể, mang tính khả thi cao, hỗ tợ cho các DN, HTX khắc phục vấn đề năng lực còn hạn chế và khả năng liên kết chưa cao. Ban hành một số cơ chế, chính sách ưu đãi thành lậpn mới các DN, HTX, nhất là các DN, HTX hoạt động trong lĩnh vực nông- nông thôn, dịch vụ thương mại- du lịch.
2. Đổi mới các hoạt động nghiên cứu, hỗ trợ, dự báo và cung cấp thông tin về cơ chế, chính sách, xúc tiến thương mại, thông tin thị trường trong và ngoài nước cho các DN, HTX để thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu hàng hóa. Nghiên cứu xây dựng các chính sách hỗ trợ cụ thể đối với các hoạt động quảng bá, giới thiệu sản phẩm trong và ngoài nước cho các DN, HTX.
3. Nghiên cứu các cơ chế, chính sách đặc thù, khuyến khích, hỗ trợ DN, HTX nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ KHKT, đổi mới công nghệ, xác lập quyền SHCN; hỗ trợ xây dựng, đánh giá chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO, HACCP và các tiêu chuẩn khác.
4. Tiếp tục thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Thực hiện hỗ trợ pháp lý cho DN, HTX, đảm bảo hàng năm có trên 40% DN, HTX trong tỉnh được hỗ trợ về nội dung cơ bản của pháp luật kinh doanh.
5. Tăng cường tổ chức các chương trình đào tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN, HTX; chú trọng việc xây dựng cơ chế liên kết giữa các cơ sở đào tạo, cơ quan nghiên cứu với các DN, HTX.
6. Không ngừng nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến quản lý hoạt động của các doanh nghiệp và HTX, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển DN, HTX trong tình hình mới.
BBT