Phát triển kinh tế rừng gắn với bảo về môi trường
19/05/2017
Lượt xem: 700
Trong những năm qua, công tác phát triển rừng trên địa bàn tỉnh đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo và có sự chuyển biến tích cực, đặc biệt là phát triển kinh tế rừng của các hộ gia đình. Tuy nhiên sự phát triển còn nhỏ lẻ, phân tán, phát triển chưa bền vững, không tạo thành vùng nguyên liệu tập trung và phát huy hết tiềm năng về rừng và đất lâm nghiệp tại địa phương.
Trong 5 năm qua thực hiện chương trình bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn 12 huyện, thành phố và một số dự án trồng rừng kinh tế của các doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư đã trồng được 7.178 ha, trong đó rừng phòng hộ, đặc dụng 1.328 ha, rừng sản xuất 5.850ha, cây phân tán 268 ha…. Qua đó giá trị kinh tế rừng ngày càng được nâng cao, đã hình thành một số vùng trồng cây lâm đặc sản, phát triển sản xuất hàng hóa như trúc sào, hồi, quế, đặc biệt rừng nguyên liệu để chế biến gỗ thu nhập bình quân 64 – 80 triệu đồng/ha.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được công tác phát triển rừng vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là phát triển trồng rừng kinh tế chưa tạo được vùng nguyên liệu gắn với chế biến, việc xây dựng các mô hình trông rừng thâm canh, trồng cây gỗ lớn, cây dược liệu dưới tán rừng chưa được thực hiện. Phần lớn đất rừng và đất lâm nghiệp do các chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân quản lý sử dụng với 272.951 ha, chiếm 51% tổng diện tích quy hoạch lâm nghiệp. Đối với doanh nghiệp, hợp tác xã được thuê 24.978 ha/534.004 ha chiếm 4,6% tổng diện tích quy hoạch lâm nghiệp…
Nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng về rừng và đất lâm nghiệp gắn với bảo vệ môi trường, phát triển thành vùng nguyên liệu tập trung, vùng lâm đặc sản mũi nhọn, đảm bảo đáp ứng nhu cầu cho các nhà máy và cơ sở chế biến lâm sản trong tỉnh và các tỉnh lân cận, góp phần thúc đẩy phát triển KT – XH, tỉnh đã xây dựng đề án Nghiên cứu một số mô hình phát triển kinh tế rừng gắn với trồng rừng và bảo vệ môi trường. Với mục tiêu đến năm 2020 trồng rừng phòng hộ đặc dụng 1.150 ha, rừng sản xuất 2.800 ha; cây lâm đặc sản quế, hồi, hạt dẻ, trúc sào 2.200 ha; khoanh nuôi tái sinh có trồng bổ sung 1.293 ha; nâng độ che phủ rừng đến năm 2020 đạt 55%.
Để hoàn thành mục tiêu đề ra cần thực hiện các giải pháp như:
Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức vai trò trách nhiệm của các cấp, các ngành và chủ rừng. Áp dụng mô hình trồng rừng liên doanh theo hình thức công ty, doanh nghiệp cùng đầu tư trồng rừng trên đất của hộ gia đình, cộng đồng trên cơ sở thỏa thuận giữa doanh nghiệp và người dân.
Ứng dụng và chuyển giao tiến bộ KHCN vào sản xuất lâm nghiệp để nâng cao năng suất, chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Xây dựng các mô hình trồng rừng cây bản địa, cây đa tác dụng, cây lâm sản ngoài gỗ…
Quan tâm đầu tư ngân sách cho bảo vệ, khoanh nuôi, trồng mới theo hướng bền vững. Đẩy mạnh liên kết giữa doanh nghiệp và người dân trong phát triển vùng nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến và thị trường tiêu thụ. Phát huy nội lực của địa phương, huy động các nguồn lực của xã hội để bảo vệ và phát triển rừng, góp phần thực hiện chủ trương xã hội hóa nghề rừng.
BLB.