Những điểm mới của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND 2015
31/03/2016
Lượt xem: 31
Trước yêu cầu tiếp tục đổi mới công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong những nhiệm kỳ tới và trên cơ sở kế thừa những quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (QH) 2010 và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) 2003; ngày 25/6/2015 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 (gọi là Luật). Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2015.
Sự cần thiết ban hành Luật
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cần thiết được ban hành bởi các lý do sau:
Thứ nhất, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013 (sau đây gọi chung là Hiến pháp) tiếp tục ghi nhận và phát triển quyền bầu cử, ứng cử với tư cách là quyền chính trị cơ bản của công dân; do đó, cần tiếp tục hoàn thiện các cơ chế để bảo đảm cho công dân thực hiện quyền này. Hiến pháp cũng đã quy định Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử quốc gia và số lượng thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia do luật định (Điều 117); do đó, cần thiết phải cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về Hội đồng bầu cử quốc gia trong Luật;
Thứ hai: Một số vấn đề mới liên quan đến công tác bầu cử quy định trong các đạo luật đã được Quốc hội thông qua như Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi), Luật tổ chức chính quyền địa phương đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung các luật về bầu cử hiện hành để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật;
Thứ ba: Quy định của Luật bầu cử hiện hành trong quá trình thực hiện cũng đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập như quy định về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, số lượng đại biểu chuyên trách, số dư trong từng đơn vị bầu cử, hồ sơ của người ứng cử, quy trình hiệp thương, việc vận động bầu cử…;
Thứ tư: Nhiều nội dung, trình tự, thủ tục quy định trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành có nhiều điểm tương tự nhau, cần thiết phải hợp nhất hai luật này để ban hành một văn bản Luật điều chỉnh chung.
Từ những lý do nêu trên cho thấy, việc xây dựng và ban hành Luật là cần thiết, giúp cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức bầu cử được thuận tiện, đồng bộ và khoa học hơn; góp phần nâng cao chất lượng đại biểu, tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp trong thời gian tới.
Bố cục của Luật
Luật gồm có 10 chương với 98 điều, được xây dựng trên cơ sở cơ cấu, bố cục lại các quy định trong hai luật về bầu cử hiện hành, cụ thể như sau:
Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 6);
Chương II: Dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu (gồm 5 điều, từ Điều 7 đến Điều 11);
Chương III: Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương (gồm 17 điều);
Chương IV: Danh sách cử tri (gồm 6 điều);
Chương V: Ứng cử và hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân (gồm 4 mục, 27 điều);
Chương VI: Tuyên truyền, vận động bầu cử (7 điều);
Chương VII: Nguyên tắc và trình tự bầu cử (4 điều);
Chương VIII: Kết quả bầu cử (gồm 4 mục, 16 điều);
Chương IX: Bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân (6 điều);
Chương X: Xử lý vi phạm về bầu cử và điều khoản thi hành (4 điều);
Những điểm mới của Luật
Thứ nhất, Điều 4, Luật Bầu cử quy định thẩm quyền quyết định ngày bầu cử toàn quốc đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu HĐND các cấp; bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội trong thời gian giữa nhiệm kỳ; thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia là thẩm quyền của Quốc hội thay vì do Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) thực hiện như trước đây. Luật quy định rõ ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật và được công bố chậm nhất là 115 ngày trước ngày bầu cử. Việc tăng thêm 10 ngày so với Luật cũ là nhằm tạo điều kiện về thời gian chuẩn bị và tiến hành các trình tự bầu cử được thuận lợi hơn, nhất là đảm bảo các bước trong quy trình hiệp thương được tốt hơn.
Thứ hai, Điều 8 của Luật quy định số lượng người dân tộc thiểu số được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Hội đồng Dân tộc của quốc hội, đảm bảo có ít nhất 18% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số và số lượng phụ nữ được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do UBTVQH dự kiến trên cơ sở đề nghị của Đoàn chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam, bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ; số lượng người ứng cử là người dân tộc thiểu số được xác định phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương. Trong khi Luật cuc quy định “ Bảo đảm số lượng thích đáng đại biểu là phụ nữ, là người dân tộc thiểu số”.
Thứ ba, Luật Bầu cử quy định Hội đồng bầu cử Quốc gia do Quốc hội thành lập có nhiệm vụ tổ chức bầu cử Đại biểu Quốc hội; chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu HĐND các cấp (Luật cũ quy định Hội đồng bầu cử ở Trung ương do Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập).
Thứ tư, Điều 29 của Luật quy định những người đang bị tạm giam, những người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc cũng sẽ được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh, nơi người đó đang bị tạm giam, đang được giáo dục, cai nghiện bắt buộc. Như vậy, theo Luật này, chỉ những người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù và người mất năng lực hành vi dân sự thì mới không được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND.
Thứ năm, tiêu chuẩn của người ứng cử đại biểu Quốc hội được quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội, còn tiêu chuẩn đại biểu HĐND được quy định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương, đó là các tiêu chuẩn cụ thể: Có trình độ chuyên môn, có sức khoẻ, có kinh nghiệm công tác và uy tín. Như vậy, trên cơ sở các quy định về tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, các cơ quan, tổ chức, đơn vị được quyền giới thiệu người ra ứng cử đề cao trách nhiệm, giới thiệu những ứng cử viên tiêu biểu, có độ tuổi thích hợp, có đủ đức, đủ tài để cử tri có điều kiện lựa chọn những người thực sự xứng đáng làm đại biểu cho mình.
Có thể thấy Luật bầu cử và các Luật khác có liên quan đã có những nội dung đổi mới quan trọng, tiếp tục đề cao và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong bầu cử, ứng cử để lập ra cơ quan đại diện, cơ quan quyền lực Nhà nước ở Trung ương và địa phương là Quốc hội và HĐND các cấp.
BBT (theo tài liệu tuyên truyền của Ban tuyên giáo Tỉnh ủy)