Thông tin mới nhất
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 33
  • Hôm nay: 10,601
  • Trong tuần: 64,860
  • Tổng lượt truy cập: 3,017,809
Đăng nhập
Nâng cao thu nhập trên đất nương rẫy
Lượt xem: 11
Việc chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, cơ cấu giống theo hướng cây trồng có khả năng chịu hạn cao, dễ làm, giá trị kinh tế cao để đạt giá trị trên 50 triệu đồng/ha/năm sẽ góp phần cải thiện đời sống vật chất, từng bước nâng cao đời sống tinh thần, văn hoá xã hội cho các vùng quê khó khăn.

Cao Bằng có khoảng 94.735 ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó đất nương rẫy 60.426 ha chiếm 63,78 %. Canh tác trên đất nương rẫy gắn liền với đời sống của đồng bào dân tộc ít người, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới khó khăn và nói chung là vùng nghèo của Cao Bằng. Đất nương rẫy hoàn toàn không được tưới, chủ yếu để trồng ngô vụ Xuân và trồng cây họ đậu như: Đỗ tương, đỗ xanh, đỗ đen, đỗ trắng, đỗ nho nhe ... Những năm chín mươi của thế kỷ XX, Cao Bằng có trên 14 ngàn ha đỗ tương vụ Hè - Thu và khoảng 16 ngàn ha ngô vụ Xuân, đảm bảo công thức luân canh khá lý tưởng: Ngô xuân - đỗ tương Hè - Thu (trừ diện tích ngô của 2 huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm).

Trong 15 năm gần đây do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nhiều diện tích đỗ tương trồng trước tiết Đại thử vẫn không cho thu hoạch hoặc năng suất rất thấp nên nông dân đã bỏ dần đỗ tương thay bằng trồng ngô, đỗ nho nhe và cơ bản là để đất trống. Biến đổi khí hậu đã làm cho mưa nắng không theo quy luật trước đây mà mưa rất lớn, tập trung gây xói lở, rửa trôi đất sau đó là hạn hán nghiêm trọng kéo dài nên đỗ tương năng suất rất thấp hoặc không cho thu hoạch. Đất nương rẫy khu vực Bảo Lạc, Bảo Lâm chủ yếu trồng một vụ ngô vào khoảng tháng 4, tháng 5 khi bắt đầu có mưa và thu hoạch vào tháng 8, tháng 9 hàng năm. Đất nương rẫy trồng ngô của Bảo Lạc, Bảo Lâm chỉ trồng một vụ ngô khi mà khả năng bón phân hữu cơ (phân chuồng, phân xanh, các chất hữu cơ khác) của nông dân rất hạn chế đã làm đất ngày càng thoái hoá, độ phì đất thấp, đất khô cứng, vi sinh vật trong đất giảm mạnh nên năng suất chỉ đạt 23 tạ/ha. Các vùng trồng ngô khác của tỉnh Cao Bằng do diện tích đỗ tương Hè - Thu giảm (từ 14 ngàn ha xuống 5,5 ngàn ha) đang có nguy cơ đất bị thoái hoá nhanh nếu không có giải pháp hợp lý. Với mức độ bón phân hoá học cao như hiện nay thì chất hữu cơ trong đất ngày càng nghèo kiệt và năng suất ngô sẽ giảm. Thu nhập bình quân của nhân dân trên đất nương rẫy Cao Bằng còn thấp, khu vực trồng một vụ như Bảo Lạc, Bảo Lâm, Lục khu Hà Quảng chỉ dưới 15 triệu đồng/ha/năm. Các huyện miền Đông của tỉnh điều kiện thuận lợi hơn, đầu tư cao hơn và thêm một vụ đỗ tương nhưng cũng chỉ đạt 30 triệu đồng/ha/năm.

Nhìn chung, thu nhập trên đất nương rẫy còn thấp đặc biệt là các vùng cao, vùng xa, vùng biên giới càng thấp; đời sống của nhân dân các dân tộc gặp rất nhiều khó khăn do chỉ trông chờ vào các sản phẩm trên đất nương rẫy, họ có ít hoặc không có ruộng, không có nghề phụ. Nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.

Vì vậy, việc chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống, ứng dụng tiến bộ KHCN mới về giống cây trồng và canh tác; thực hiện canh tác bền vững, không ngừng cải thiện độ phì cho đất nương rẫy, từng bước chuyển đổi theo hướng sản xuất hàng hoá để tăng nhanh và ổn định thu nhập cho nông dân, đặc biệt là vùng cao, vùng biên giới, vùng khó khăn của tỉnh Cao Bằng có ý nghĩa rất quan trọng.

Từ năm 2005, Cao Bằng đã có thử nghiệm và tổ chức chuyển đổi thành công cây lạc L14 vào vụ hè thu của vùng Lục Khu huyện Hà Quảng, và các huyện: Thông Nông, Trà Lĩnh, Quảng Uyên, Thạch An, Trùng Khánh. Cây lạc chủ yếu được trồng trên đất bỏ không vụ hè thu hoặc thay một phần diện tích đỗ tương, ngô không ổn định. L14 là giống lạc chủ lực trồng trong vụ xuân của các tỉnh phía Bắc, đây là giống có khả năng chịu hạn, năng suất cao, trả lại cho đất khối lượng chất xanh, đạm khá lớn và là cây có khả năng cải tạo đất rất cao trên đất nương rẫy rất cao. Sản phẩm lạc trồng trong vụ hè thu của Cao Bằng là để làm giống cung cấp cho các tỉnh Bắc Trung bộ vào tháng 12 hàng năm.

Năm 2010, Cao Bằng đã triển khai trồng đỗ xanh thử nghiệm tại 10 huyện với 50 ha trên đất bỏ không vụ hè thu với giống đỗ xanh có khả năng chịu hạn cao, thời gian sinh trưởng 65-70 ngày, thu hái hai lứa quả(chủ yếu là lứa đầu chiếm 80% sản lượng) đạt năng suất bình quân 17 tạ/ha(năng suất cao nhất đạt 23 tạ/ha, thấp nhất đạt 7tạ/ha) mang lại thu nhập trên 50 triệu đồng/ha/vụ. Những năm 2011, 2012, 2013 với sự hỗ trợ của dự án IFAD và sự tích cực của các huyện cùng sự cố gắng của nông dân diện tích đỗ xanh đã mở rộng ra nhiều xã, xóm. Đỗ xanh có giá trị kinh tế cao(gấp trên 2 lần đỗ tương), trong vụ hè thu không lệ thuộc nhiều vào thời tiết khí hậu(đỗ tương phải trồng trước tiết Đại thử nhưng đỗ xanh do ngắn ngày nên trồng muộn vẫn không ảnh hưởng nhiều đến năng suất và có khối lượng thân lá lớn nên khả năng cải tạo đất rất cao). Từ năm 2011-2013, trong khuôn khổ nguồn vốn của dự án IFAD, Trung tâm đậu đỗ quốc gia đã cùng phối hợp với các cơ quan chuyên môn của tỉnh và huyện triển khai mô hình và nhân rộng mô hình trồng giống đỗ tương ĐVN14 tại huyện Trùng Khánh cho kết quả rất tốt: chịu hạn cao, khả năng kháng bệnh tốt, năng suất đạt trên 20 tạ/ha đối với đầu tư bình thường của nông dân.

Để hạn chế những rủi ro do thiên nhiên mang lại, nâng cao và ổn định thu nhập cho người sản xuất cần tập trung đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu giống, cơ cấu cây trồng; Những năm tới ngành nông nghiệp vẫn tiếp tục phối hợp với các địa phương tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu giống, đưa vào sản xuất các loại giống ngắn ngày, chịu hạn cao, năng suất cao, giá trị thương mại cao, cụ thể:

Vụ xuân: Tập trung chuyển đổi giống ngô ngắn ngày, có khả năng chịu hạn cao như: LVN25, SB099, P4199, B 9698..
Vụ hè thu(vụ mùa):
Đỗ xanh: Chuyển đổi một số diện tích trồng đỗ tương không hiệu quả và đất bỏ không trong vụ mùa sang trồng các giống đỗ xanh ngắn ngày, chịu hạn cao, năng suất cao như: ĐX11, ĐX208...
Đỗ tương: Thay các giống đỗ tương khả năng chịu hạn kém hiện nay bằng giống đỗ tương năng suất cao, chịu hạn cao(dù hạn thế nào vẫn cho thu hoạch) như ĐVN5-ĐVN14...
Ngô:Trồng ngô vụ hè thu bằng các giống có khả năng chịu hạn cao như: VN8960, B9698...
Từ năm 2014, Huyện Hà Quảng phối hợp với sở KHCN, sở nông nghiệp và PTNT Cao Bằng đưa mô hình trồng cây Hồ đào trên đất trồng ngô không hiệu quả ở Lục Khu theo phương thức: Trồng 200-300 cây Hồ đào trên đất vẫn trồng ngô-đậu, khi cây hồ đào cho thu hoạch đạt giá trị cao hơn cây ngô thì thôi trồng ngô. Huyện Nguyên Bình chuyển đổi trồng Chè chất lượng cao trên đất nương rẫy tại Phja Đén từ năm 2007 đạt được giá trị trên 300 triệu/ha/năm.
Đất nương rẫy ảnh hưởng trực tiếp đến trên 50% dân số của tỉnh, đặc biệt là các đối tượng chính sách(hộ nghèo, vùng cao, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng biên giới) có đời sống hết sức khó khăn. Nếu với thu nhập như hiện nay khoảng 20 triệu đồng/ha/năm thì chưa đảm bảo đời sống về vật chất chưa nói đến các nhu cầu văn hoá xã hội. Việc chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, cơ cấu giống theo hướng cây trồng có khả năng chịu hạn cao, dễ làm, giá trị kinh tế cao để đạt giá trị trên 50 triệu đồng/ha/năm sẽ góp phần cải thiện đời sống vật chất, từng bước nâng cao đời sống tinh thần, văn hoá xã hội cho các vùng quê khó khăn.



Tin khác
1 2 3 4 5  ... 














image advertisement