Một số kết quả nổi bật trong phát triển kinh tế- xã hội tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2016-2018
06/08/2018
Lượt xem: 717
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ XVIII, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Cao Bằng khóa XV về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2016-2020; tỉnh Cao Bằng đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành Trung ương triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ đề ra. Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng với sự nỗ lực, quyết tâm chính trị cao của các cấp, các ngành, đội ngũ doanh nghiệp và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2018 của địa phương tiếp tục có sự chuyển biến tích cực hơn so với giai đoạn 2011-2015 và đạt được một số kết quả quan trọng.
Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2016-2018 như sau:
Về kinh tế:
Tổng sản phẩm (GRDP) bình quân tăng giai đoạn 2016-2018 ước đạt 6,57%, trong đó: Nông, lâm nghiệp tăng trên 1,75%; Công nghiệp, xây dựng tăng trên 13,1%; Dịch vụ tăng trên 6,2%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 3,35%.
Tỷ trọng cơ cấu các ngành kinh tế đến hết năm 2018: Nông lâm ngư nghiệp ước đạt 23,64%, công nghiệp và xây dựng ước đạt 22,06%, dịch vụ ước đạt 50,45%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước đạt 3,85%.
GRDP bình quân đầu người ước đạt 24,9 triệu đồng, tương đương 1.097 USD.
Tổng sản lượng lương thực đạt trên 270 nghìn tấn; giá trị sản phẩ trồng trọt, nuôi trồng thủy sản trên 1 đơn vị diện tích (ha) đạt 38 triệu đông.
Nhịp độ tăng trưởng bình quân kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2016-2017 đạt 20,1%/năm, ước 2018 kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 453/680 triệu USD, giảm sâu so với năm 2017 và không đạt kế hoạch đề ra.
Tốc độ tăng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh bình quân giai đoạn 2016- 2018 đạt 27,3% so với dự toán trung ương giao, trong đó thu nội địa tăng 29,3%, thu thuế xuất nhập khẩu tăng 26% so với dự toán trung ương giao.
Nhịp độ tăng trưởng tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh bình
quân giai đoạn 2016-2018 ước đạt 6,5%/năm.
Về văn hóa - xã hội
Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục các bậc học, cấp học; mỗi huyện, thành phố tăng thêm ít nhất 01 trường chuẩn quốc gia, ước được 41 trường chuẩn (2016, 2017 mỗi năm tăng 13 trường, riêng năm 2018 ước tăng 15 trường).
Giảm tỷ suất sinh 0,1 %0, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,88%.
Có 14 bác sỹ/vạn dân; 85,9% trạm y tế xã có bác sỹ; tăng thêrn 18 xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế; xây dựng 10 trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia; 97,67% dân so tham gia bao hiểm y tế.
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng cuối năm 2018 còn 18,6%.
Đến cuối năm 2018, tỷ lệ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa ước đạt 83%; tỷ lệ làng, xóm, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn văn hóa ước đạt 53%; tỷ lệ cơ quan đạt tiêu chuẩn văn hóa ước đạt 93%; tỷ lệ xóm có nhà văn hóa ước đạt 76,3%.
Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân trên 3%/năm.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 38%, trong đó: đào tạo nghề 30%;
tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị 4%.
Số xã được công nhận đạt tiêu chí nông thôn mới đạt 15/20 xã, đạt
75%KH.
Về môi trường
Tỷ lệ che phủ rừng đạt 54,5%.
Tỷ lệ dân cư thành thị được dùng nước sạch đến hết năm 2018 đạt 85,6%, tỷ lệ dân cư nông thôn được dùng nước họp vệ sinh đạt 88%.
Số hộ chăn nuôi gia súc đưa ra khởi gầm sàn được 10.075/12.890 hộ, đạt 78,1% kê hoạch hay 39/50% tổng số hộ chăn nuôi còn để gia súc dưới gầm sàn năm 2015.
Tôc độ tăng trưởng nửa nhiệm kỳ đạt bình quân 6,57%/năm, chưa đạt mục
tiêu kê hoạch đề ra, tuy nhiên đây là mức tăng khá so với giai đoạn 2011-2015
(bmh quân 4,8%/năm), phản ánh được sự cố gắng, quyết tâm của tỉnh trong phát triên kinh tê - xã hội của tỉnh. Trong đó, lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp tăng bình quân 1,75/3,5% không đạt kê hoạch; lĩnh vực công nghiệp xây dựng tăng 13,1% cao hom so với kế hoạch đề ra 9,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 6,2/8,7% thắp hom so với kê hoạch đề ra; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng bình quân 3,35%, tuy nhiên chiếm tỷ trọng nhỏ.