Thông tin mới nhất
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1
Đăng nhập
Một số kết quả nổi bật sau hơn 02 năm thực hiện Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2021 – 2025
Lượt xem: 232
Trong giai đoạn hiện nay, với tốc độ phát triển khoa học và công nghệ của thế giới, trên nền tảng của thành tựu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), để nền kinh tế của Việt Nam có thể theo kịp xu hướng thời đại. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại,…” . Đây là tư duy mới, quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng đối với vai trò của khoa học - công nghệ trong tiến trình phát triển đất nước. Để thể hiện sự nhất quán và quyết tâm trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII cũng như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ XIX, tại Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh đá ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 03/11/2021 về phát triển KH&CN và đổi mới sáng tạo tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2021 – 2025, định hướng năm 2030 với mục tiêu tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội về phát triển Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐMST).

Với quyết tâm chính trị cao và sự vào cuộc quyết liệt của cấp uỷ, chính quyền các cấp cũng như sự nỗ lực trong công tác tham mưu, cụ thể hoá các nội dung của Nghị quyết đến với đời sống nhân dân trong thời gian qua đãbước đầu tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội về phát triển KHCN&ĐMST; Các cơ chế chính sách được quan tâm bổ sung hoàn thiện, qua đó đã kịp thời khuyến khích và thu hút được nhiều nguồn lực (từ trong và ngoài NSNN, nguồn TW, nguồn địa phương...) đầu tư cho phát triển KHCN&ĐMST, những thành quả bước đầu đã góp phần quan trọng phục vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Cao Bằng theo hướng ổn định và bền vững.

Trong thời gian qua, Sở KH&CN  đã tổ chức nghiệm thu 21 đề tài KH&CN, chuyển giao kết quả của 19 đề tài cho các đơn vị, địa phương nhân rộng và ứng dụng vào sản xuất; các đề tài, nhiệm vụ KH&CN đã tập trung nghiên cứu việc ứng dụng và chuyển giao các công nghệ sản xuất giống, vật nuôi, chuyển giao các quy trình kỹ thuật canh tác, chăn nuôi tiên tiến, kỹ thuật xử lý sâu bệnh hại, các mô hình ứng dụng tiến bộ KH&CN để nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi. Tập trungvào việc bảo tồn, phục tráng và phát triển các loại cây đặc sản của địa phương; phát triển các loại cây trồng có thế mạnh của địa phương để hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, góp phần đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tạo ra các sản phẩm hàng hóa nông nghiệp đặc sản có giá trị kinh tế cao. Bên cạnh đó,  lĩnh vực Y – dược đã tăng cường nghiên cứu ứng dụng các biện pháp nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh trong tỉnh, chú trọng nghiên cứu sản xuất các chế phẩm, dược phẩm từ nguồn dược liệu của Cao Bằng. Một số cây dược liệu được các doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư, tiếp nhận kết quả để mở rộng sản xuất, tạo sản phẩm hàng hóa như: Thất diệp nhất chi hoa, Lan dược liệu, Hà thủ ô đỏ.  Lĩnh vực khoa học kỹ thuật, công nghệ đã tập trung nghiên cứu các công nghệ, quy trình kỹ thuật tiên tiến, đồng thời hỗ trợ các dự án sản xuất thử nghiệm để đầu tư, đổi mới công nghệ theo hướng ưu tiên cho công nghệ bảo quản, chế biến nông sản để hỗ trợ sản xuất nông nghiệp; giải quyết vấn đề về nước sinh hoạt, nước phục vụ sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy đã khuyến khích được các đơn vị sản xuất kinh doanh đầu tư ứng dụng đổi mới công nghệ tăng lên rõ rệt, đã có nhiều dự án sản xuất thử nghiệm, áp dụng đổi mới công nghệ sử dụng một phần kinh phí sự nghiệp KH&CN và các nguồn vốn khác đã tạo ra các sản phẩm mới của tỉnh. Lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần nghiên cứu, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội của địa phương, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển KT-XH, đảm bảo an ninh quốc phòng của địa phương. Việc triển khai các nhiệm vụ, đề tài KH&CN đã được các sở, ngành, UBND huyện, thành phố quan tâm và chú trọng,đã có 17 đơn vị thành lập được Hội đồng KH&CN và ban hành quy chế hoạt động và trên 60 đề xuất đặt hàng nhiệm vụ KH&CN của các sở, ngành, UBND huyện, cơ quan đơn vị, doanh nghiệp trong tỉnh đề nghị xem xét triển khai.

Xác định việc đăng ký bảo hộ, quản lý và phát triển tài sản trí tuệ, kiểm soát nguồn gốc và chất lượng sau khi được bảo hộ là một trong những nội dung quan trọng trong quá trình đưa sản phẩm vào thị trường, trong thời gian qua các sản phẩm OCOP của tỉnh đã được kiểm soát về truy xuất nguồn gốc, trong đó có 28 hàng hóa, dịch vụ đã được Giấy chứng nhận nhãn hiệu.

Việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 đã góp phần hỗ trợ các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh trong việc chuẩn hoá các quá trình giải quyết công việc, cải tiến phương thức thực thi công vụ với mục tiêu hướng tới sự hài lòng của tổ chức, công dân và minh bạch hoá quy trình thực thi, Sở KH&CN đã đẩy mạnh công tác kiểm tra, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị tiếp tục áp dụng hệ thống ISO 9001, tính đến năm 2023, 100% cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh đã áp dụng hệ thốngquản lý chất lượng ISO 9001(bản giấy); Sở KH&CN đã tham mưu cho UBND tỉnh tổ chức đánh giá, xếp hạng kết quả xây dựng, áp dụng hệ thống hàng năm qua đó tăng cường nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị trong quá trình lãnh, chỉ đạo các nhiệm vụ chính trị tại địa phương, đơn vị đồng thời góp phần nâng cao chất lượng trong quá trình thực thi công vụ.

Nắm bắt xu thế phát triển chung của thị trường hiện nay,  trong thời gian qua với quyết tâm thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết số 06, Sở KH&CN đã nỗ lực phối hợp, hỗ trợ 06 lượt tổ chức, doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo với tổng kinh phí 161.620.000 đồng từ ngân sách nhà nước;triển khai 01 dự án đầu tư công và triển khai 01 nhiệm vụ KH&CN giai đoạn 2024-2025 về bảo tồn, lưu giữ nguồn Gen sinh vật, những giống cây dược liệu, cây đầu dòng quý hiếmcủa tỉnh; Hiện đang hoàn thiện 01 khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại xã Lê Chung, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.

Trong năm 2022, đã ra mắt được Mạng lưới cố vấn hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo tỉnh Cao Bằng; đến nay đã tổ chức được trên 10 hội nghị tập huấn cho các DN/HTX/hộ sản xuất ở địa phương; Đã hỗ trợ triển khai các mô hình sản xuất xanh, xử lý chất thải trong sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ sinh học, thân thiện môi trường; Trong năm 2023,xây dựng dự thảo Đề án thành lập Trung tâm khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo của tỉnh; đến nay, dự thảo Đề án tiếp tục được chỉnh sửa, hoàn thiện và dự kiến trong năm 2024 sẽ trình phê duyệt và thực hiện đưa Trung tâm vào vận hành hoạt động; đã ban hành kế hoạch và tổ chức ra mắt Trạm xanh Án Lại,... những kết quả bước đầu đã tạo tiền đề để hình thành và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo tỉnh Cao Bằng trong những năm tiếp theo.

Có thể nói, qua hơn 02 năm triển khai thực hiện, Nghị quyết số 06-NQ/TU đã bước đầu đạt đượcnhững kết quả đáng khích lệ, nhận thức của chính quyền các cấp, các ban, ngành,đoàn thể và quần chúng nhân dân về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác tăngcường ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống, phục vụphát triển kinh tế - xã hội đã từng bước được nâng cao. Hoạt động nghiên cứukhoa học, ứng dụng công nghệ và khởi nghiệp ĐMST đã đượcnâng lên đáng kể cả về lượng và chất. Các mô hình ứngdụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất được triển khai đã mang lại hiệu quảkinh tế cao, góp phầnchuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, nâng cao thu nhậpcho người dân. Tuy nhiên, có thể nhận thấy, việc nghiên cứu, ứng dụng và làm chủ côngnghệ mới, công nghệ tiên tiến vào thực tiễn sản xuất và đời sống còn chậm; ứngdụng khoa họccòn nhỏ lẻ, hiệu quả chưa cao.Hoạt động nghiên cứu khoa học chưa thực sự gắn chặt với thị trường;Việc đề xuất đặt hàng nhiệm vụ KH&CN của của các Sở, Ban, ngành, chínhquyền các địa phương và các doanh nghiệp trên địa bàn còn chưa có; Còn thiếunhững nhiệm vụ KH&CN mang tính liên ngành, liên vùng, sản xuấtvà chế biếnsâu các sản phẩm theo chuỗi giá trị. Hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ trong các ngành, lĩnh vựccòn nhiều hạn chế.Việc tuyên truyềnphổ biến và xây dựng cơ chế, chính sách để nhân rộngvà phát huy kết quả nghiên cứu KH&CN sau khi được nghiệm thu theo mục tiêucủa Nghị quyết còn hạn chế.Hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất và ứngdụng kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất cho các đơn vị còn gặp khó khăn.

Trong thời gian tới, Sở KH&CN cùng với cấp uỷ, chính quyền các cấp tiếp tục tập trung triển khai hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu mà Nghị quyết đã đề ra, trong đó tập trung thực hiện:

1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền về nội dung Nghị quyết số 06- NQ/TU và những chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển KHCN&ĐMST; Cụ thể hóa các mục tiêu của Nghị quyết số 06-NQ/TU trong các chương trình, kế hoạch công tác của các cấp chính quyền địa phương. Ưu tiên tập trung mọi nguồn lực đầu tư cho KH&CN;

2. Tiếp tục quan tâm nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện tháo gỡ khó khăncho các doanh nghiệp trong việc ứng dụng thành tựu KH&CN vào sản xuất vàđời sống; Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách hướng tới phát triển thị trường khoa học và công nghệ gắn với thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ nhằm thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu, khai thác các sáng chế; tăng cường hỗ trợ đối với hoạt động ứng dụng tiến bộ KH&CN, đổi mới nâng cao trình độ công nghệ; sửa đổi chính sách hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ cho phù hợp.

3. Nâng cao chất lượng quản lý, theo dõi và triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ phục vụ sản xuất vàđời sống, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư ứng dụng các tiến bộ KH&CN vào sản xuất, kinh doanh nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ; tổ chức nhân rộng kết quả của các đềtài, dự án đã được nghiệm thu vào đời sống sản xuất, tập trung vào các lĩnh vựcnông nghiệp thông minh, du lịch, dịch vụ...;

4. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, truyền thông và hội nhập quốc tế về thị trường KH&CN. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về KH&CN.

Tác giả bài viết: Hồng Hà
Tin khác
1 2 3 4 5  ... 














image advertisement