Cao Bằng quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
14/05/2018
Lượt xem: 714
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước, công tác xây dựng đội ngũ trí thức của tỉnh Cao Bằng được đổi mới toàn, đội ngũ trí thức tăng nhanh về số lượng, chất lượng và có nhiều đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Năm 2017, toàn tỉnh có 21.549 trí thức, tăng 13.778 trí thức so với năm 2007; 08 trí thức là tiến sỹ, bác sỹ chuyên khoa cấp II, tăng 05 người so với năm 2007; 830 trí thức có trình độ thạc sỹ, bác sỹ chuyên khoa cấp I, tăng 568 người so với năm 2007; 15.473 trí thức có trình độ đại học, tăng 1.765 người so với năm 2007; 2.845 trí thức có trình độ lý luận cao cấp, cử nhân, tăng 2.640 người so với năm 2007; 16.008 trí thức là đảng viên (chiếm 74,28% số trí thức hiện có), tăng 11.562 đảng viên so với năm 2007.
Nhằm tạo môi trường, điều kiện thuận cho đội ngũ trí thức phát huy được năng lực sáng tạo phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, trong những năm qua, tỉnh đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức, cụ thể như: Tỉnh ủy Cao Bằng đã ban hành Chương trình hành động số 46-CTr/TU, ngày 31/3/2009 thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 9 (khóa X) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020; Chương trình số 12-CTr/TU, ngày 09/5/2016 về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ giai đoạn 2016 -2020; Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số 14/2009/NQ-HĐND, ngày 17/7/2009 về chính sách đào tạo nhân lực trình độ đại học, sau đại học tại Trường đại học Quảng Tây - Trung Quốc giai đoạn 2008 – 2010; Nghị quyết số 32/NQ-HĐND, ngày 08/12/2017 Quy định một số chính sách thu hút đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao đến công tác tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2017 – 2020; UBND tỉnh ban hành Quyết định số 11/2017/QĐ-UBND, ngày 11/6/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tuyển dụng công chức năm 2012, …
Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ CBCCVC, đến nay, biên chế công chức đối với các cơ quan của HĐND, UBND cấp tỉnh, cấp huyện của Cao Bằng là 2.258 biên chế (giảm 124 biên chế so với năm 2015, đạt tỷ lệ 5,21%); biên chế viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập là 17.344 biên chế (giảm 555 biên chế so với năm 2015, đạt tỷ ỉệ 3,12%).
Công tác tuyển dụng công chức, viên chức được thực hiện bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật. 10 năm qua, tỉnh đã tuyển dụng được 482 người có trình độ đại học trở lên.
Công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại và giới thiệu cán bộ ứng cử được thực hiện đúng quy trình; nằm trong quy hoạch và phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan đơn vị, đồng thời đảm bảo các tiêu chuẩn theo quy định của vị trí chức danh bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử. Từ tháng 6/2012 đến nay đã bổ nhiệm được 74 người, bổ nhiệm lại 65 người, giới thiệu cán bộ ứng cử 53 người; số cán bộ được bổ nhiệm, bổ nhiệm lại thuộc đối tượng đã phân cấp cho thủ trưởng các cơ quan đơn vị bổ nhiệm, bổ nhiệm lại là 559 người.
Việc thực hiện các chế độ, chính sách như: Chế độ nâng lương thường xuyên, nâng lương trước thời hạn; phụ cấp thâm niên nghề; chế độ làm thêm giờ... được thực hiện đúng quy định.Công tác thi đua, khen thường nhằm khuyến khích, tôn vinh trí thức được chú trọng thực hiện. Hằng năm, tỉnh đã quan tâm tổ chức gặp mặt đầu xuân giữa Lãnh đạo tỉnh với đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, nhà báo tiêu biểu nhằm ghi nhận, tôn vinh những đóng góp của đội ngũ văn nghệ sỹ, trí thức, nhà báo vào sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hoá- xã hội của tỉnh.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được chú trọng. 10 năm qua, tỉnh đã cử 277 cán bộ đi học cao cấp lý luận tập trung tại Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I và Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; 801 cán bộ học cao cấp lý luận chính trị - hành chính hệ không tập trung mở tại tỉnh; 275 cán bộ tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn làm công tác dân vận, kiểm tra, tuyên giáo, công tác văn phòng; 31 cán bộ đi học bồi dưỡng kiến thức quốc phòng thuộc đối tượng 1 và 427 cán bộ thuộc đối tượng 2.
Giai đoạn 2011 - 2015 đã cử 53 CBCCVC đi đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài. Trong năm 2016-2017, tỉnh đã chọn cử 73 CBCCVC đi đào tạo sau đại học; 39 cán bộ, lãnh đạo quản lý trẻ được bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, 100 CBCCVC được bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo quản lý.
Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh, các cấp, các ngành trong tỉnh thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện cho Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh hoạt động (LHH). Đến nay, LHH đã có 20 Hội thành viên, 01 Trung tâm, 01 Câu lạc bộ Trí thức với trên 119.000 hội viên, trong đó có trên 4.500 hội viên trí thức. LHH đã chủ trì tổ chức các Hội thi sáng tạo kỹ thuật thu hút nhiều cán bộ quản lý, cán bộ khoa học – kỹ thuật, nông dân, công nhân trực tiếp lao động sản xuất tham gia, các giải pháp mang lại hiệu quả thiết thực.
Tỉnh đã quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị để đội ngũ trí thức phát huy khả năng của mình trong hoạt động khoa học, nghiên cứu, sáng tạo và đào tạo nguồn nhân lực.
Cấp uỷ, chính quyền các cấp đã tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ trí thức tham gia đóng góp ý kiến vào các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội; tạo điều kiện để đội ngũ trí thức đầu tư nghiên cứu các đề tài khoa học, đề án, sáng kiến kinh nghiêm, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác phát triển Đảng và xây dựng tổ chức Đảng đối với đội ngũ trí thức. Trên cơ sở đó, đội ngũ trí thức đã có những đóng góp quan trọng trọng quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH tại địa phương. Cụ thể như sau:
Trong lãnh đạo, quản lý: Bộ phận trí thức tham gia công tác lãnh đạo, quản lý đã phát huy tốt vai trò và khả năng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo cua Đảng, hiệu quả quản lý Nhà nước. Đa sổ các quyết sách lớn của tỉnh đã phát huy tác dụng tốt, giải quyết được căn bản những vấn đề thực tiễn của đời sống xã hội. Trí thức là lãnh đạo tỉnh đã quyết định, ban hành và triển khai nhiều cơ chế, chính sách thuận lợi cho sự phát triển địa phương trên nhiều lĩnh vực.
Lĩnh vực giáo dục - đào tạo: Lực lượng trí thức đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ mới. Thực hiện đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của tỉnh, cải thiện và đưa phương pháp mới vào dạy và học ở tất cả các bậc học. Đến nay, toàn tỉnh có 109/664 trường đạt chuẩn quốc gia; duy trì và giữ vững kết quả phổ cập giáo dục tiểu học tại 199/199 xã, phường, thị trấn; phổ cập giáo dục tiểu học tại 13/13 huyện, thành phố, 199/199 xã, thị trấn; phổ cập giáo dục Trung học cơ sở tại 199/199 xã; có 13/13 huyện, thành phố, 196/199 xã (98,4%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi.
Lĩnh vực y tế: Lực lượng trí thức đã góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Thực hiện đổi mới công tác khám chữa bệnh; loại trừ bệnh phong theo tiêu chuẩn mới; một số bệnh xã hội có chiều hướng giảm; thường xuyên làm tốt công tác phòng, chống, giám sát dịch bệnh, không để dịch lớn xảy ra; thực hiện có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế; chú trọng nghiên cứu các đề tài khoa học (gồm 90 đề tài cấp ngành, 14 đề tài, sáng kiến câp tỉnh, hơn 100 đề tài, sáng kiến kinh nghiệm cấp cơ sở), áp dụng thành tựu khoa học vào khám chữa bệnh như: Siêu âm, mổ nội soi... Mạng lưới y tế không ngừng được củng cố, mở rộng, đến năm 2017, có 100% trạm y tế xã được xây dựng từ cấp 4 trở lên, trong đó có 100/199 xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn quốc gia vế y tế xã.
Trong hoạt động nghiên cứu, ứng dựng khoa học và công nghệ: Đội ngũ trí thức đã có những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu khoa học, sáng tạo trong lao động, ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, chuyển đổi cơ cấu cây trồng; cải thiện và bảo vệ môi trường... góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, như: Nghiên cửu sản xuất thực phẩm chức năng có tác dụng lợi mật, kích thích tiêu hoá, bảo vệ gan, giảm đau từ quả mác mật; ứng dụng cây sói rừng ở Cao Bằng để hỗ trợ điều trị một số bệnh ung thư; áp dụng cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện thí điểm cho một số cây trồng như thuốc lá, mía; sản xuất miến dong tại Nguyên Bình; Đổi mới công nghệ, cải tiến thiết bị nâng cao công suất nhà máy đường Phục Hoà; đẩy mạnh liên kết 4 nhà trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng thành công các mô hình: Lúa nếp hương Xuân Trường, Bảo Lạc; Lúa nếp ong Trùng Khánh; mô hình sản xuất lạc giống tại xã Phù Ngọc, huyện Hà Quảng 20ha; mô hình sản xuất lúa thuần chất lượng cao tại xã Cai Bộ, huỵện Quảng Uyên. Trong công nghệ sinh học, đã tiếp thu công nghệ nhân giống phương pháp nuôi cấy mô, công nghệ giâm hom...
Lĩnh vực văn hóa, thể dục, thể thao: Lực lượng trí thức đã có nhiều đóng góp vào việc thúc đẩy các hoạt động văn hoá, thể thao của tỉnh phát triển, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Các thiết chế văn hoá từ tỉnh đến cơ sở được củng cố, tạo môi trường văn hoá lành mạnh; phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng có bước phát triển; hoạt động thể dục - thể thao được đẩy mạnh. Hoạt động báo chí, xuất bản, văn nghệ phát triển cả về số lượng, chất lượng, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong các tầng lớp nhân dân.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trên địa bàn tỉnh đang tồn tại một số khó khăn, hạn chế như: Công tác quy hoạch, đánh giá, bố trí sắp xếp và sử dụng cán bộ còn bất cập; chưa thu hút được trí thức có học hàm, học vị cao, cán bộ chuyên môn giỏi, chuyên gia đầu ngành về tỉnh công tác; Khả năng thực hành và vận dụng ngoại ngữ, sử dụng công nghệ thông tin của một bộ phận trí thức chưa đáp ứng yêu câu đặt ra; Kinh nghiệm hoạt động trong môi trường kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế; Sự tham gia của đội ngũ trí thức trong công tác nghiên cứu, triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất chưa thực sự hiệu quả; Cơ cấu đội ngũ trí thức không đồng đều về độ tuổi, giới tính, trình độ, ngành nghề, phần lớn trí thức tập trung trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo (khoảng 70% trí thức);...
Để nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trong thời gian tới, cấp ủy đảng, chính quyền các cấp tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt sâu rộng các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ đã nêu trong Nghị quyết số 27-NQ/TW; Chủ động nghiên cứu, tham mưu hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút, đãi ngộ, tôn vinh trí thức có tài năng, có phẩm chất đạo đức tốt, có cống hiên cho sự phát triển của tỉnh; Bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật chất, chế độ để trí thức yên tâm công tác; Quan tâm tới những cán bộ trẻ có triển vọng để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ kế cận; đảm bảo công bằng, khách quan, dân chủ trong công tác quản lý, sử dụng trí thức, điều động, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ...; Tạo điều kiện và cơ hội cho trí thức trẻ tham gia làm việc trong các thành phần kinh tế ở địa phương; Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tô chức thành viên Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật tỉnh; Tô chức tốt Hội thi sáng tạo kỹ thuật nhằm khuyến khích, thu hút nhiều đề tài, sáng kiến, giải pháp khoa học, công nghệ mới, ứng dụng có hiệu quả vào sản xuât và đời sống; Xây dựng cơ chế phát huy đóng góp trí tuệ của đội ngũ trí thức đối với những nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh; Ban hành quy chế tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật để tập hợp các chuyên gia tổ chức tư vấn, phản biện độc lập, bảo đảm nâng cao chất lượng các chương trình, đề án lớn của tỉnh; Đội ngũ trí thức của tỉnh tiếp tục nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ góp phân quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
TN