Thông tin mới nhất
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1
Đăng nhập
Cao Bằng quan tâm chỉ đạo xây dựng mô hình gia đình ít con - no ấm - bình đẳng - tiến bộ - hạnh phúc
Lượt xem: 694
Sau 05 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 39-CT/TU ngày 11/6/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Cao Bằng về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong việc thực hiện Chiến lược Dân số và sức khỏe sinh sản (DS-SKSS) Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, công tác DS-SKSS tại địa phương đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
13/13 huyện, thành phố của tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo (BCĐ) công tác DS-KHHGĐ và kiện toàn hằng năm. 199/199 xã, phường, thị trấn có BCĐ công tác DS-KHHGĐ do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn làm Trưởng ban. Mỗi xã có một cán bộ chuyên trách và bình quân 10-20 cộng tác viên. Tổ chức bộ máy làm công tác DS-SKSS/KHHGĐ được quan tâm kiện toàn từ tỉnh đến cơ sở, biên chế phù hợp với điều kiện địa phương, đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Tuyến tỉnh gồm ban lãnh đạo và 03 phòng chuyên môn với tổng biên chế 19 người. Tuyến huyện gồm 13 Trung tâm Dân Số-KHHGĐ với 86/94 biên chế được giao năm 2016, trung bình có 07 viên chức/trung tâm (có 03 trung tâm có 08 viên chức). Tuyến xã: 199 cán bộ phụ trách công tác Dân Số-KHHGĐ xã, phường, thị trấn với 2.488 cộng tác viên dân số xóm, tổ dân phố.

Mạng lưới CSSKSS được thành lập và duy trì hoạt động từ tỉnh đến huyện, xã. Cán bộ tham gia mạng lưới CSSKSS chủ yếu có chuyên môn về sản, nhi.

Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể thường xuyên tuyên truyền, vận động, triển khai có hiệu quả các mục tiêu DS -SKSS/KHHGĐ, tạo sự chuyển biến rõ về nhận thức; đưa tiêu chí thực hiện tốt chính sách DS-SKSS/KHHGĐ là một trong các tiêu chí để xem xét thi đua khen thưởng, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ của các đơn vị, địa phương.

Nhận thức, vai trò, trách nhiệm của đại đa số các tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện chính sách DS-SKSS/KHHGĐ có bước chuyển biến rõ rệt. Nhiều gia đình thực hiện tốt quy định sinh từ 1 - 2 con, xây dựng mô hình gia đình ít con - no ấm - bình đẳng - tiến bộ - hạnh phúc. Tỷ lệ cặp vợ chồng sử dụng biện pháp tránh thai hiện tại tăng từ 71,5% năm 2012 lên 72,9% năm 2016, bình quân mỗi năm tăng 0,4%; tỷ lệ trẻ sơ sinh được bổ sung vitamin K1 ngay sau đẻ tăng từ 71,1% năm 2012 lên 77,1% năm 2016.

Hoạt động xã hội hoá công tác Dân Số-KHHGĐ được quan tâm chỉ đạo, tăng cường vận động các tổ chức phi chính phủ hỗ trợ cho công tác Dân Số-KHHGĐ . Từ năm 2012 đến năm 2016, chính quyền địa phương đã vận động tổ chức Y tế Thế giới hỗ trợ được 7 tỷ 902 triệu đồng. Tập trung hỗ trợ xây dựng một số nhà chờ đẻ; đào tạo, tập huấn cho cán bộ Trạm Y tế về chăm sóc thiết yếu bà mẹ - trẻ sơ sinh; hỗ trợ truyền thông về nuôi con bằng sữa mẹ. Hiện nay, Bệnh viện huyện Hòa An và Trùng Khánh đã đạt tiêu chuẩn Bệnh viện bạn hữu trẻ em.

Các chương trình thực hiện mục tiêu Dân Số-KHHGĐ và Chăm sóc sức khỏe sinh sản được quan tâm chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Cụ thể: Tỷ suất sinh giảm từ 17,7 0/00 năm 2012 xuống 17,10/00 năm 2016; mức giảm tỷ suất sinh bình quân hằng năm là 0,150/00, đạt chỉ tiêu kế hoạch giai đoạn 05 năm (kế hoạch giảm bình quân 0,15-0,20/00); Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 9,40/00 năm 2012 xuống 9,00/00 năm 2016. Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai hiện tại tăng từ 71,5% năm 2012 lên 72,9% năm 2016; Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 20,5% năm 2012 còn 19,9% năm 2015. Bước đầu giảm tử vong mẹ và tử vong sơ sinh: Năm 2012 là 1200/00 đến năm 2016 là 1000/00; Tỷ lệ phụ nữ khám thai 3 lần/3 kỳ tăng từ 70% năm 2011 lên 71,9 % năm 2016.

Đến hết năm 2016, toàn tỉnh có 06/13 bệnh viện thực hiện phẫu thuật triệt sản đơn thuần và 05/13 bệnh viện thực hiện kỹ thuật cấy tránh thai; 10/13 bệnh viện thực hiện mổ cấp cứu, truyền máu và 13/13 bệnh viện thực hiện hồi sức sơ sinh. Đặc biệt, hệ thống Trung tâm DS- KHHGĐ của 13 huyện, thành phố đã được quan tâm tạo điều kiện về mặt cơ chế, đào tạo cán bộ kỹ thuật, đầu tư trang thiêt bị để thực hiện một sô danh mục kỹ thuật kế hoạch hóa gia đình như: Đặt dụng cụ tử cung và tiêm tránh thai, góp phần cung cấp dịch vụ thuận tiện, an toàn cho người dân; đồng thời chủ động, tích cực hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch các biện pháp tránh thai hằng năm. 100% Trạm y tế xã, phường có nữ hộ sinh hoặc y sỹ sản, nhi thực hiện các dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ thông thường, 84% xã thực hiện đỡ đẻ thường; 100% thôn, bản có cộng tác viên dân số, tuyên truyền vận động sử dụng các biện pháp tránh thai phi lâm sàng, quản lý đối tượng bà mẹ trẻ em, phụ nữ đang mang thai...

Hoạt động đảm bảo hậu cần phương tiện tránh thai tại tỉnh được cung ứng theo 03 kênh: Miễn phí, tiếp thị xã hội và thị trường tự do. Đối tượng hộ nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số, thuộc diện chính sách, xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa được ưu tiên cấp phương tiện tránh thai miễn phí. Những đối tượng không thuộc diện cấp miễn phí thì vận động mua từ nguồn tiếp thị xã hội hoặc thị trường tự do. Hoạt động tiếp thị xã hội phương tiện tránh thai được thực hiện lồng ghép với các hoạt động chuyên môn của hệ thống DS-KHHGĐ các cấp.
Hoạt động nâng cao chất lượng dân số thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ được triển khai thí điểm tại một số địa phương. Cụ thể như:

Mô hình Tư vấn và khám sức khoẻ tiền hôn nhân, triển khai tại 19 xã, phường, thị trấn thuộc huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm, Thạch An và Thành phố; duy trì sinh hoạt nhóm của 19 câu lạc bộ với trên 1.000 thành viên tham gia, 1.458 thanh niên được cung cấp thông tin, kiến thức và kỹ năng về DS-KHHGĐ; 1.275 người được tư vấn; 168 người được khám sức khỏe tiền hôn nhân.
Mô hình Can thiệp làm giảm tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống thực hiện tại 12 xã thuộc 05 huyện: Bảo Lâm, Bảo Lạc, Thông Nông, Hoà An và Nguyên Bình. Đến năm 2015 các hoạt động được duy trì tại cơ sở gồm: Sinh hoạt định kỳ của 53 nhóm và 14 điểm truyền thông tư vấn; hỗ trợ hoạt động tư pháp, hoạt động truyền thông lồng ghép lễ hội tại cộng đồng... Kết quả từ năm 2011-2015 đã vận động hoãn cưới, dừng cưới tảo hôn được 25 cặp.

Chương trình sàng lọc, chuẩn đoán trước sinh và sơ sinh triển khai từ năm 2013 tại 20 xã, phường, thị trấn thuộc các huyện: Trà Lĩnh, Hòa An, Thạch An và Thành phố. Tổ chức các hoạt động hội thảo, tập huấn kỹ thuật về lấy mẫu máu gót chân trẻ sơ sinh cho cán bộ y tế các tuyến. Cử các bác sĩ đi đào tạo chẩn đoán trước sinh và sơ sinh. Cung ứng sản phẩm truyền thông và dụng cụ, vật tư tiêu hao lấy mẫu máu cho các đơn vị tham gia chương trình tại tuyến cơ sở. Kết quả đến hết năm 2016: Sàng lọc trước sinh được 400 bà mẹ và lấy mẫu máu gót chân được 581 trẻ sơ sinh, trong đó phát hiện 16 ca dương tính với bệnh thiếu men G6PD.

Công tác DS-SKSS/KHHGĐ được đầu tư kinh phí từ 3 nguồn: Chương trình mục tiêu quốc gia, nguồn địa phương và huy động xã hội hóa. Từ năm 2012 đến năm 2016, tổng kinh phí đầu tư cho công tác DS- KHHGĐ từ nguồn Chương trình mục tiêu quốc gia là gần 31 tỷ đồng; nguồn địa phương là gần 30 tỷ đồng. Tổng kinh phí đàu tư cho công tác Chăm sóc SKSS-Dinh dưỡng trẻ em từ nguồn Chương trình mục tiêu quốc gia là 7,902 tỷ đồng; nguồn địa phương là 360 triệu đồng; nguồn xã hội hóa là 7,902 tỷ đồng.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác DS-SKSS/KHHGĐ trên địa bàn tỉnh còn tồn tại một số hạn chế như: Kết quả thực hiện công tác DS-SKSS/KHHGĐ không đồng đều giữa các vùng và khồng ổn định; tỷ suất sinh tại một số huyện còn tương đối cao; tỷ số giới tính khi sinh có xu hướng tăng; tỷ suất chết trẻ dưới 1 tuổi giảm không bền vững; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em giảm chậm; vẫn còn tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống và sinh con thứ 3 trở lên...

Nguyên nhân của những hạn chế trên là do một số cấp ủy, chính quyền cơ sở còn thiếu quan tâm, chỉ đạo thực hiện công tác DS-KHHGĐ; việc lồng ghép thực hiện công tác dân số vào kế hoạch hoạt động của các ngành chưa toàn diện; kinh phí hỗ trợ để triển khai chương trình còn hạn chê, báo cáo tình hình thực hiện chưa thường xuyên; do nhận thức của một số ít cặp vợ chồng muốn sinh nhiều con và phải có con trai “nối dõi”; vấn đề tảo hôn, kết hôn cận huyêt thống không dễ thay đổi trong thời gian ngắn…

Mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015-2020 xác định đến năm 2020 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của tỉnh đạt 0,88%. Để thực hiện được mục tiêu này, cần có sự chung tay của cả hệ thống chính trị và người dân trong việc thực hiện chính sách DS-KHHGĐ, trong đó các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cần chú trọng thực hiện một số giải pháp trọng tâm như: Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quỵền đối với công tác DS-SKSS/KHHGĐ thông qua việc ban hành và tổ chức triển khai kịp thời, hiệu quả các nghị quyêt, chỉ thị, kê hoạch hành động, nhằm giải quyết những thách thức trước mắt cũng như lâu dài của địa phương về lĩnh vực DS-SKSS/KHHGĐ; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân vê thực hiện chính sách DS- SKSS/KHHGĐ; Chỉ đạo lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu về DS-SKSS/KHHGĐ vào kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn và hằng năm của tỉnh; đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện; Tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ đê năng cao chất lượng dịch vụ DS-SKSS/KHHGĐ; Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách DS- SKSS/KHHGĐ; Tăng cường xã hội hóa, phối hợp liên ngành, đề cao trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị trong thực hiện công tác DS-SKSS/KHHGĐ từ tỉnh đến cơ sở; Bố trí nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu công tác DS-SKSS/KHHGĐ trong thời kỳ mới.

HN
Tin khác
1 2 3 4 5  ... 














image advertisement