Thông tin mới nhất
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1
Đăng nhập
Cao Bằng khai xuân với các lễ hội truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa
Lượt xem: 50
Hòa chung trong không khí đón chào năm mới của cả nước, hàng năm Cao Bằng khai xuân với hàng loạt các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc trong tỉnh như: lễ hội đền vua Lê, lễ hội đề Kỳ Sầm, lễ hội Pháo hoa,… Mỗi một lễ hội đều gắn với phong tục tập quán riêng có của một vùng, địa phương hay của một dân tộc nhất định nhưng đa số các lễ hội tại Cao Bằng đều bao gồm hai phần, gồm: phần lễ là các nghi thức dâng hương mang ý nghĩa văn hóa tâm linh và phần hội là các trò chơi dân gian truyền thống mang đến niềm vui, sự hứng khởi để bắt đầu công việc của một năm mới với hy vọng sẽ tốt đẹp hơn.
Lễ hội Lồng Tồng

Lễ hội Lồng tồng (còn gọi là lễ xuống đồng) là lễ hội gắn liền với nền nông nghiệp, được tổ chức trong các bản làng để cầu cúng thần nông - vị thần cai quản ruộng đồng, vườn tược, gia súc, làng bản cho được cây cối xanh tươi, mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi, mọi người no ấm, bản làng yên lành. Lễ hội Lồng tồng đã có từ rất lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác trong cộng đồng người dân tộc Tày, Nùng, ở Cao Bằng Lễ hội diễn ra từ ngày 2 đến 30 tháng giêng âm lịch để mở mùa gieo trồng mới (tùy theo từng địa phương).

Hội tổ chức ngoài trời, trên một thửa ruộng lớn gọi là ruộng xuống đồng. Hội chia thành hai phần: Phần lễ có tạ thiên địa, cầu thần Nông, thần Phục Hy độ trì cho mưa thuận gió hoà, gia cầm sinh sôi, bản làng bình yên no ấm... Chủ trì hội là ông thại đinh (người coi đình) hay người coi việc thờ cúng Thần Nông của bản. Tất các cả gia đình tham dự hội đều mang theo cỗ để làm lễ vật cúng thần đất, thần núi, Thần Nông và Thành Hoàng: đó là những mâm cỗ thịnh soạn, trình bày đẹp. Mâm lễ thường có xôi nếp, thịt lợn, rượu trắng và các loại bánh như khẩu sli, khẩu slec, bánh khảo, bánh dày, chè lam...Gia đình nào có cỗ thịnh soạn và mời được nhiều khách dự hội đến thưởng thức cỗ nhà mình thì xem đó là điều may mắn cho cả năm. Ăn cỗ xong, mọi người tiếp tục ca hát và tham gia các trò chơi dân gian: cướp còn, ném còn, kéo co, đánh quay, đánh yến, đánh đu, múa kỳ lân, múa sư tử, múa võ, múa giáo, bịt mắt bắt dê, hát giao duyên (hát lượn), cờ tướng …

Trong những năm gần đây đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, và được sự quan tâm của Đảng, Nhà Nước, lễ hội Lồng Tồng của đồng bào Tày diễn ra càng sôi nổi, phong phú hơn, đảm bảo các yếu tố văn hoá dân gian, đã thu hút du khách cả nước đến thăm quan, dự hội ngày một đông.
Lễ hội đền Vua Lê

Lễ hội Đền Vua Lê tại làng Đền, xã Hoàng Tung, huyện Hoà An được tổ chức vào ngày mùng 6 Tết âm lịch hàng năm. Ngoài phần lễ được tiến hành ngay từ sáng sớm dưới sự có mặt đông đảo nhân dân trong vùng thì phần hội bao gồm các hoạt động văn hóa văn nghệ, trò chơi dân gian: cờ tướng, cờ người, đẩy gậy, kéo co…, thu hút đông đảo người dân tham gia.

Đền Vua Lê nằm trong quần thể di tích thành Nà Lữ. Đây là trung tâm hoạt động kinh tế, văn hoá, quân sự của nhiều triều đại vua quan phong kiến xưa. Trước cách mạng Tháng Tám và trong thời kỳ chống thực dân Pháp, đền Vua Lê là một địa điểm đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, tại đây đầu năm 1936, đồng chí Hoàng Đình Giong đã chỉ thị thành lập Đoàn Thanh niên phản đế; năm 1944, đền là nơi họp hội nghị Liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng; tháng 9/1945, đền là nơi tập trung tiễn đưa quân đi Nam tiến...

Năm 1995, Đền Vua Lê được Nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hoá cấp Quốc gia, là nơi tập trung lễ hội, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ của nhân dân trong vùng.

Lễ hội đền Kỳ Sâm

Đền Kỳ Sầm thờ Khâu Sầm Đại Vương Nùng Trí Cao ở Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, huyện Hoà An, cách trung tâm thị xã Cao Bằng 5km. Đây là danh nhân lịch sử người Dân tộc Tày, có công trong sự nghiệp mở nước ở thời vua Lý Thái Tông thế kỷ XI. Ông là con của thủ lĩnh Nùng Tôn Phúc và bà A Nùng. Nùng Trí Cao là người có tài thao lược, ông đã có công đánh tan giặc Tống xâm lược nước ta, được vua phong Thái Bảo và cho trấn giữ châu Quảng Nguyên và được nhân dân kính trọng. Sau khi ông mất vua lại phong cho là Khâu Sầm Đại Vương. Công lao của ông đã được người đời sau tưởng nhớ và lập đền thờ.

Lễ hội đền Kỳ Sâm được tổ chức vào ngày 10 tháng Giêng hàng năm, tại xã Vĩnh Quang, huyện Hoà An. Lễ được mở đầu là phần lễ và sau đó là phần hội với nhiều trò chơi như: Tung còn, đấu vật, đấu võ, đá bóng, múa sư tử, múa rồng, múa lân... thu hút sự hưởng ứng nhiệt tình của du khách. Lễ hội là dịp để người dân tưởng nhớ công lao Khâu Sầm Đại Vương và cũng là dịp đi vãn cảnh và hái lộc đầu xuân.

Lễ hội Nàng Hai của dân tộc Tày


Ảnh nguồn internet

Lễ hội nàng Hai hay còn gọi là nàng Trăng là một trong những lễ hội dân gian truyền thống của đồng bào dân tộc Tày ở Cao Bằng. Lễ hội diễn ra vào dịp đầu xuân, gắn với tín ngưỡng phồn thực của người Việt cổ, với ước mong về mùa màng tươi tốt, con người sinh sôi nảy nở. Hiện lễ hội này vẫn còn được lưu giữ nguyên vẹn tại xã Tiên Thành (huyện Phục Hòa) và xã Kim Đồng (huyện Thạch An).

Hội được bắt đầu vào tháng giêng và kéo dài đến trung tuần tháng ba. Theo tín ngưỡng dân gian người Tày, trên cung Trăng có Mẹ Trăng và 12 nàng tiên là con các Mẹ Trăng, hàng năm chăm lo, bảo vệ mùa màng và cuộc sống cho dân chúng ở trần gian. Lễ hội Nàng Hai là cuộc hành trình lên trời đón Mẹ Trăng và các nàng tiên xuống vui hội trần gian, giúp dân việc đồng áng, mùa màng bội thu, muôn nhà hạnh phúc.

Để tổ chức hội Nàng Hai, các cụ già trong bản chọn một bà mẹ có cuộc sống gia đình hoàn thiện, hát giỏi để làm Mẹ Trăng, tiếng địa phương gọi là "Mụ cốc" và chọn lấy 12 đến 18 cô gái trẻ đóng vai nàng tiên. Trong các cô này chọn ra hai cô gái chưa chồng để đóng hai chị em trăng. Cô chị gọi là "Nàng Slở", cô em gọi là "Nàng Gường". Chọn lấy hai thiếu niên nam mang lễ đi trước mở đường cho cuộc hành trình các nàng và mẹ trăng đi lên trời.

Dân bản dựng một cái lều ở nơi khô ráo trong bản, gọi là lều trăng, tiếng địa phương gọi là "Thiêng hai". Lều được dựng sơ sài lợp rơm, trước lều các cô gái vào rừng hái các hoa rừng như: Bioóc Mạ, hoa cây Khảo Quang, hoa Guột, hoa Chuối,…trong lều kê mấy tấm phản dùng làm chỗ ngồi cho mẹ trăng và các nàng tiên khi làm lễ. Trước khi hành lễ những người đóng vai Mẹ Trăng và các nàng đứng trước bàn thờ để ông Tào làm lễ hóa thân. Sau lễ nhập hồn việc hành lễ đón trăng bắt đầu. Sau ngày lễ đón trăng, Mẹ Trăng và các nàng đã làm lễ nhập hồn rồi về nhà không được làm những công việc uế tạp như gánh phân, vào chuồng gia súc...

Việc hành lễ hội: Sau lễ đón trăng xuống, các đêm tiếp theo là làm lễ cúng các Mẹ Trăng. Lễ cũng làm trong mười hai đêm. Mỗi đêm cúng mời một Mẹ Trăng xuống giúp cho trần gian làm ăn. Sau đó dân bản lại tổ chức đưa tiễn các nàng trăng về trời. Lễ này được tổ chức chu đáo trong một ngày, dân bản lại dựng một lều trăng thứ hai ở ngoài cổng. Trước khi ra hành lễ đưa tiễn các nàng trăng về trời ở ngoài đồng, Mẹ Trăng và các nàng trăng phải làm lễ chia tay trong lều đón trăng ở trong bản, họ hát các bài hát chia tay và vừa đi vừa dùng tay du mạnh những cột lều để cho lều đổ, mục du lều đổ này gọi là mục "Trụ trại". Sau lễ "Trụ trại", Mẹ Trăng và các nàng trăng ra cầu thần trông coi đầu bản và cuối bản mở cửa cho Mẹ Trăng và các nàng trăng về trời.

Lễ hội Nàng Hai vừa thể hiện tín ngưỡng dân tộc, vừa phản ánh nguyện vọng của dân tộc Tày nói riêng và các dân tộc miền núi nói chung trong sự sinh tồn, trong bối cảnh nông thôn miền núi. Việc khôi phục lại lễ hội Nàng hai là gìn giữ cho dân tộc Tày một lễ hội cổ truyền mang tính văn hóa, đồng thời gìn giữ được làn điệu dân ca "lượn hai" mà lâu nay trong các làn điệu dân ca dân tộc Tày, người sưu tầm gần như đã quên lãng

Lễ hội pháo hoa Quảng Uyên

Lễ hội pháo hoa Quảng Uyên diễn ra vào ngày 2/2 âm lịch hàng năm, là lễ hội truyền thống độc đáo với màn tranh pháo hoa đầu xuân của các xã tại thị trấn Quảng Uyên, để cầu mong cho một năm mới may mắn, phát tài, phát lộc.

Lễ hội pháo hoa gắn với các yếu tố về lịch sử, tâm linh của miếu Bách Linh. Miếu được xây từ thời Lý dưới chân núi Cốc Bó, đến thời nhà Nguyễn được xây dựng lại.

Phần đặc sắc nhất trong phần lễ là màn “khai quan” cho rồng mở mắt. Rồng được khai quan từ một mỏ nước (người dân địa phương gọi là bó Cốc Chủ - mỏ nước ở dưới gốc cây cổ thụ). Lễ do một cụ cao tuổi, có uy tín làm chủ lễ và một đội rồng gồm 15 người (3 người đánh trống, một người cầm quả cầu và 11 người múa rồng) làm lễ tại mỏ nước. Sau đó, người ta đánh trống thúc giục và rồng từ từ bay lên, rồng bay quanh mỏ nước ba lần rồi đi vào miếu Bách Linh; trong miếu đã được đặt lễ và thắp hương, rồng vào miếu vái ba lần, sau đó đi trong miếu một vòng rồi ra ngoài.

Lễ vật dâng lên tế lễ gồm 2 con lợn quay, 1 mâm xôi, 1 mâm trứng nhuộm phẩm đỏ, 1 mâm hoa quả. Phần lễ diễn ra long trọng với 4 đoàn rước kiệu, đầu tiên là kiệu rước ảnh Bác Hồ, thứ hai là kiệu rước thần, thứ ba là kiệu pháo hoa, cuối cùng là kiệu rước một con lợn quay.

Phần hội diễn ra sôi nổi với nhiều trò chơi dân gian như: múa rồng, múa lân, tung còn, hát lượn, tranh đầu pháo... Trò chơi tiêu biểu của lễ hội là trò cướp đầu pháo, đầu pháo làm từ chiếc vòng sắt trang điểm tua ngũ sắc sặc sỡ, pháo được đặt trên một đài cao, Ban Tổ chức đã tiến hành trò chơi bằng cách đứng trên đài cao rồi tung vòng sắt (đầu pháo) ra cho các đội tranh cướp. Xã nào thắng cuộc sẽ được phần thưởng là một con lợn quay trên kiệu trong lễ rước thần, cỗ kiệu cũng được để lại cho xã đó hương khói cầu lộc một năm đến lễ hội pháo hoa năm sau, địa phương này lại chuẩn bị một con lợn quay để lên kiệu, đoàn rước rồng sẽ đến lấy làm lễ rước thần, đồng thời làm phần thưởng cho đội thắng cuộc thi năm đó.

Lễ hội pháo hoa đã tồn tại trong tâm thức nhiều thế hệ người dân Quảng Uyên và trở thành nét đẹp tinh thần không thể thiếu mỗi dịp xuân về.

Lễ hội chùa Sùng Phúc

Theo sách Đại Nam nhất thống chí và sách Việt Nam dư địa chí: Chùa Sùng Phúc thuộc xã Thanh Nhật huyện Hạ Lang tỉnh Cao Bằng. Hội Chùa hàng năm mở vào ngày Rằm tháng giêng thu hút đông đảo khách thập phương trẩy hội cầu may.

Chùa Sùng Phúc được xây dựng từ thời vua Trần Nhân Tông thế kỷ XIII, chùa thờ Đức Phật Quan Âm Bồ Tát ở hậu cung có tượng Phật Bà. Bên trái thờ vị Thành Hoàng, người có công chiêu dân khẩn hoang lập bản làng- ông Nguyễn Thành Vương tức Nguyễn Đình Bá (1678) tri châu Tư Lang, ông quê ở thôn Bình Dân, phủ Khoái Châu tỉnh Hưng Yên, sau làm Đốc đồng ở Cao Bằng.

Chùa Sùng Phúc còn thờ vi đồ là bà Nguyễn Thị Duệ, người làng Kiệt Đặc, nay thuộc xã Văn An, huyện Chí Linh, Hải Dương. Bà theo cha lên Cao Bằng thời vua Mạc Kính Cung. Năm 20 tuổi, bà cải trang là nam thi đỗ tiến sĩ đầu bảng ở trường quốc học Bản Thảnh Cao Bằng. Khi thi đỗ bà được mời về ly cung Đống Lân để dạy học cho hoàng tử, công chúa. Vua Mạc lấy bà làm vợ và đặt tên là Tinh Phi (Sao sa). Năm 1625 nhà Lê cử tướng Trịnh Kiền lên Cao Bằng bắt được vua Mạc Kính Cung đem về Thăng Long trị tội. Bà Duệ chạy về Hạ Lang đi tu ở chùa Sùng Phúc. Bà tài cao học rộng mở lớp dạy học, giảng về giáo lý nhà phật. Bà được quan châu Nguyễn Đình Bá mến mộ, truyền cho nhân dân ngoài vùng “Lệnh Cấm” không cho ai được lai vãng đến chùa để che dấu tung tích bà đang bị nhà Lê truy tìm. Nhưng, nhà Lê biết tin bà Duệ ở Hạ Lang đã đón bà về Thăng Long. Sau, người dân tưởng nhớ người thầy nghèo Nguyễn Thị Duệ, đưa bài vị vào Chùa để thờ. Chùa được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 29/1/1993.

Lễ hội ngày nay được tổ chức không được như trước, song ban tổ chức vẫn cố gắng giữ gìn bản sắc văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo của người xưa, như: tổ chức rước kiệu Quan Âm Bồ Tát, kiệu Thành Hoàng, khôi phục các trò chơi dân gian, làn điệu dân ca dân tộc, công tác tổ chức lễ hội ngày càng chu đáo hơn nên lễ hội diễn ra an toàn, lành mạnh, đáp ứng nhu cầu trẩy hội đầu xuân của du khách thập phương.

Bên cạnh các lễ hội trên, Cao Bằng còn có nhiều lễ hội giàu bản sắc văn hóa như: lễ hội trọi bò ở huyện Bảo Lâm, lễ hội chùa Phố Cũ, lễ hội Đền Hoàng Lục, hội mời Mẹ trăng,… đến nay các lễ hội này vẫn được bảo tồn nhằm lưu giữ các nét đẹp văn hóa của đồng bào các dân tộc tỉnh Cao Bằng cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Tin khác
1 2 3 4 5  ... 














image advertisement